Hệ thống Giám sát - Đánh giá của Ôxtrâylia
Ôxtrâylia là nhà nước Liên bang, gồm 06 bang và 2 lãnh thổ. Hệ thống hành chính Ôxtrâylia gồm 3 cấp chính quyền: Liên bang, bang và chính quyền địa phương.
- Chính phủ Liên bang với các chức năng chủ yếu là quốc phòng, ngoại giao, thương mại, tiền tệ và vấn đề nhập cư.
Tổng số nhân viên của của cấp Liên bang khoảng 253.000 người, trong đó khoảng 133.000 công chức thuộc bộ máy hành chính, làm việc tại 19 Bộ và 150 cơ quan liên bang, đối tượng này chịu sự điều chỉnh của Luật Công vụ Ôxtrâylia. Số còn lại khoảng 120.000 người, là nhân viên hành chính sự nghiệp và làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, họ không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Công vụ mà hoạt động theo luật riêng.
- Chính phủ bang do Thủ hiến bang đứng đầu, thực hiện các chức năng chính: cảnh sát, trường học, bệnh viện, giao thông vận tải…Chính quyền các bang và lãnh thổ có khoảng 1,2 triệu nhân viên.
- Chính quyền địa phương (cấp cơ sở) gồm 700 hội đồng. Thực tế chính quyền địa phương tồn tại dưới hai dạng – Hội đồng quận hay Hội đồng thành phố nhưng đều là một cấp và người đứng đầu là Thị trưởng. Chức năng chính của chính quyền địa phương bao gồm: xây dựng và bảo dưỡng đường sá, cung cấp nước, xử lý nước thải, thu gom rác và phát triển nhà ở. Đội ngũ nhân viên của cấp này có khoảng 167.000 nhân viên.
* Hệ thống giám sát - đánh giá của các cơ quan Chính phủ Ôxtrâylia
Ôxtrâylia là một trong các nước của khối Hợp tác phát triển kinh tế (OECD) đi tiên phong trong việc phát triển hệ thống giám sát-đánh giá (GSĐG), khởi đầu từ năm 1987. Trong số các nước thuộc khối Hợp tác phát triển kinh tế thì Ôxtrâylia, Canađa, Hà Lan và Mỹ được xếp vào hàng các quốc gia có văn hóa đánh giá cao nhất.
Ôxtrâylia thực hiện chiến lược đánh giá toàn bộ Chính phủ vì vậy tất cả các cơ quan của Chính phủ dù muốn hay không đều phải xây dựng hệ thống GSĐG. Chiến lược này được sự ủng hộ mạnh mẽ của các thành viên Nội các, nhất là các Bộ trưởng các Bộ chủ chốt, những người luôn coi trọng việc sử dụng kết quả đánh giá phục vụ cho việc ban hành ra các quyết định một cách hiệu quả nhất. Hệ thống GSĐG của Ôxtrâylia hiện nay được xem là có cấu trúc đánh giá hợp lý. Nền móng của việc xây dựng hệ thống GSĐG được bắt đầu từ hệ thống GSĐG rất chặt chẽ do Bộ Tài chính kiểm soát và quản lý từ những năm 1990, sau này nó đã được phát triển và trở thành một hệ thống được phân cấp mạnh và xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, khuyến khích tính tự chủ của các cơ quan và gắn kết với các ưu tiên của từng cơ quan. Các báo cáo kết quả hoạt động của tất cả các cơ quan luôn phải gửi kèm theo bản thanh, quyết toán tài chính cũng như kết quả đánh giá các chương trình hoạt động do cơ quan thực hiện. Các cơ quan phải tiến hành đánh giá từ 03 đến 05 năm một lần, các cuộc đánh giá này do chính các Bộ quản lý chuyên ngành tự đánh giá, Bộ Tài chính và các Bộ khác sẽ rà soát lại. Các kết quả đánh giá được sử dụng vào việc lập ngân sách hàng năm và trình lên Chính phủ. Một số Bộ lớn thường thuê đánh giá chính thức và rất tích cực khai thác, sử dụng các kết quả đánh giá, thậm chí các phương án tiết kiệm chi tiêu cũng dựa vào các kết quả đánh giá. Chính các thông tin về đánh giá giúp cho Chính phủ có cơ sở để quyết định một cách phù hợp các dự toán ngân sách của các Bộ và trong thực tế giúp cho các Bộ nâng cao được hiệu quả hoạt động của bộ máy.
* Hệ thống GSĐG tại một số cơ quan của Chính phủ Ôxtrâylia
1. Bộ Các dịch vụ con người – một mô hình cung ứng dịch vụ công tập trung
Trong tổng số 19 bộ của Chính phủ liên bang, Bộ Các dịch vụ con người là một Bộ đặc thù, chủ yếu là thực hiện cung cấp các dịch vụ liên quan đến đời sống con người, không có chức năng hoạch định các chính sách liên quan đến con người. Chức năng này thuộc các Bộ quản lý chuyên ngành khác. Nhiệm vụ cụ thể của Bộ Các dịch vụ con người là phát triển, cung cấp và điều phối các dịch vụ của Chính phủ và xây dựng chính sách về cung cấp dịch vụ. Bộ trực tiếp cung cấp các dịch vụ và có các mối quan hệ về bảo trợ thất nghiệp, chăm sóc y tế, hỗ trợ trẻ em, dịch vụ giải quyết các khiếu nại qua điện thoại và dịch vụ phục hồi chức năng/tái hòa nhập. Bộ có vai trò về chính sách chiến lược trong cung ứng dịch vụ thông qua việc hỗ trợ các Bộ hoạch định chính sách. Bộ tập trung nhiều vào hệ thống phúc lợi của Ôxtrâylia, điều này cho phép cải thiện hiệu quả chi phí và đáp ứng được các nhu cầu của cá nhân. Tính tương đối tập trung của hệ thống phúc lợi khiến cho công tác quản lý việc chi trả thêm phức tạp, trong khi nhu cầu của các khách hàng là rất đa dạng, do vậy phải tập trung vào nhu cầu khách hàng chứ không phải là giao dịch. Bộ quản lý gần 100 tỷ AUD chi hàng năm cho bảo hiểm y tế và phúc lợi, chiếm gần 10% GDP, hay 40% ngân sách. Tổng số có 40.000 cán bộ nhân viên làm việc tại Bộ và 05 cơ quan thuộc Bộ gồm: Chương trình hỗ trợ trẻ em (CSP), Cơ quan dịch vụ phục hồi chức năng / tái hòa nhập liên bang (CRS),Cơ quan chăm sóc phúc lợi (Centrelink) , Bảo hiểm y tế Ôxtrâylia (MA) và Dịch vụ giải quyết các khiếu nại qua điện thoại (Ôxtrâylian Hearing ). Hầu hết 20 triệu dân Ôxtrâylia đều sử dụng dịch vụ của Bộ thông qua bảo hiểm y tế, trong đó 6,5 triệu người là các đối tượng hưởng chính sách trợ cấp xã hội. Thực tế, trong vòng từ 05-06 năm trở lại đây, mọi dịch vụ của các cơ quan nhà nước đều tập trung vào Bộ Các dịch vụ con người.
Hiện Bộ đã và đang thực hiện Kế hoạch chiến lược 04 năm 2009-2013, trong đó xác định rõ các kết quả tác động cần đạt được tới thông qua từ 10-15 chỉ số đánh giá (tập trung chính vào sự hài lòng của người dân). Ngoài các chỉ số chính còn có nhiều chỉ số phụ để có thể đo lường được kết quả như: thời gian chi trả tiền, thời gian trả lời điện thoại, mức độ cập nhật của số lượng thống kê, cách thức thu xếp các cuộc tiếp xúc với dân, việc giải quyết các khiếu nại của dân …Các bộ phận theo dõi phải có báo cáo tiến độ hàng tháng cho Ban lãnh đạo. Lượng thông tin của bộ phận theo dõi nhiều khi quá tải do vậy việc xử lý, phân tích thông tin được xem là một khối lượng công việc rất lớn. Việc đánh giá được kết hợp đánh giá nội bộ và đánh giá độc lập, cuối cùng kiểm toán rà soát, thẩm định. Ngoài việc đánh giá được tiến hành hàng năm hoặc theo yêu cầu, các cuộc khảo sát, điều tra ý kiến của người dân cũng là các công cụ được áp dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn sau khi trao đổi qua điện thoại, khách hàng được hỏi ý kiến nhận xét bằng điện thoại tự động ghi âm. Một hình thức khác mà Cơ quan chăm sóc phúc lợi (Centrelink) thường làm, đó là tổ chức các cuộc hội thảo khách hàng, qua đó để thu thập ý kiến phản hồi của người dân, và đã xác định được 05 giá trị quan trọng trong việc phục vụ người dân :
- Thái độ thân thiện, giúp đỡ và lịch sự của nhân viên;
- Các thông tin được cung cấp đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy và dễ hiểu;
- Dễ dàng tiếp cận các dịch vụ, được lựa chọn và linh hoạt về phương tiện tiếp cận;
- Nhận được dịch vụ nhanh chóng và hiệu quả;
- Khi giải quyết vấn đề của người dân, họ thấu hiểu các nhu cầu của từng cá nhân.
2. Ban Công vụ
Ban Công vụ Ôxtrâylia là cơ quan trung ương thuộc Văn phòng Thủ tướng và Nội các, tổng số công chức là 162 người, hoạt động theo quy chế độc lập (independent statutory) và trực tiếp báo cáo lên Quốc hội Liên bang. Lãnh đạo Ban Công vụ gồm: Chủ nhiệm Ban Công vụ Ôxtrâylia, Phó Chủ nhiệm Ban Công vụ và Chủ nhiệm phụ trách lĩnh vực bảo vệ và sử dụng tài năng (merit protection ). Chức năng nhiệm vụ của Ban Công vụ được Luật Công vụ năm 1999 quy định.
Ban Công vụ thành lập Nhóm chuyên trách Nghiên cứu và Đánh giá, nhiệm vụ của nhóm là tập trung giám sát, đánh giá các cơ quan trung ương. Hệ thống giám sát đánh giá vận hành theo nguyên tắc dựa trên kết quả. Nhóm này thực hiện việc đánh giá các chương trình căn cứ vào các chỉ số được xác định trước. Hàng năm Ban Công vụ phải đệ trình báo cáo lên Quốc hội trong đó nêu rõ mức độ hoàn thành của các cơ quan bằng cách so sánh với chỉ số đánh giá, đồng thời báo cáo phải phân tích những khó khăn, thách thức (thông qua việc tiến hành điều tra khảo sát, thông thường với khoảng 6000 mẫu). Đánh giá phải làm rõ các vấn đề chung có tính xuyên cắt các bộ ngành vì những vấn đề đặc thù, lĩnh vực ưu tiên của từng bộ, ngành là do chính các cơ quan đó tự đánh giá. Từ những kết quả nghiên cứu, đánh giá, Ban Công vụ đang nghiên cứu mô hình quản lý của Anh và New Zealand về tính cạnh tranh trên phương diện năng lực chuyên môn giữa các cơ quan.
3. Bộ Giáo dục,Việc làm và Quan hệ nơi làm việc
Bộ Giáo dục, Việc làm và Quan hệ nơi làm việc là một bộ lớn với 6.000 công chức trong toàn Liên bang. Lãnh đạo Bộ gồm: Bộ trưởng kiêm Phó Thủ tướng và 02 Bộ trưởng phụ trách lĩnh vực. Chức năng chủ yếu của Bộ là quản lý chuyên môn về giáo dục - đào tạo, quản lý các hỗ trợ tài chính và tạo việc làm, giúp tìm việc, hỗ trợ thất nghiệp…
Nhóm nghiên cứu và Đánh giá của Bộ bao gồm 200 người, được tổ chức thành 05 phòng chuyên môn. Trước sức ép trong nước đòi hỏi về công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình của Chính phủ và trước yêu cầu tuân thủ các chuẩn mực quốc tế (OECD, IMF, ILO…), từ những năm 90, Bộ cũng như các cơ quan khác của Chính phủ cần phải có sự hỗ trợ của hệ thống GSĐG nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu về đánh giá hiệu quả và chi phí. Việc đánh giá được tiến hành trong Bộ nhưng quy mô, phạm vi đánh giá là theo các lĩnh vực, chương trình do vậy việc đánh giá rất rộng. Các quy trình xử lý phải được đặt ra để duy trì được sự minh bạch và tính độc lập thông qua việc tham chiếu giữa các đơn vị trong Bộ, tham khảo ý kiến của các bên liên quan, áp dụng các phương pháp có tính độc lập bảo đảm tính chính xác và công bố các kết quả đánh giá. Trong quá trình đánh giá nội bộ cũng cần hợp đồng với bên ngoài thực hiện việc thu thập dữ liệu hay tư vấn kỹ thuật. Xét về cấu trúc quản lý của việc đánh giá giáo dục, phần lớn việc đánh giá được các bang và các lãnh thổ đồng tài trợ và thường được điều hành bởi một Ban chỉ đạo bao gồm đại diện Chính phủ Liên bang, Chính quyền bang và lãnh thổ và các chuyên gia kỹ thuật. Ban chỉ đạo có thể đóng vai trò là cơ quan tư vấn hoặc cơ quan ra quyết định. Thực tế, việc đánh giá các chương trình giáo dục thường do các tư vấn độc lập thực hiện.
Những lợi ích do việc GSĐG mang lại là rất rõ ràng, giúp đo lường được kết quả thực thi công việc, không ngừng cải thiện dịch vụ việc làm và tác động của các can thiệp vào thị trường lao động, đồng thời đáp ứng được các yêu cầu của trách nhiệm giải trình trước Quốc hội và công chúng cũng như gợi mở các đề tài nghiên cứu.
Những tiêu chí chủ yếu về đánh giá, trước hết đó là tính hiệu lực (effectiveness) hay nói cách khác là tác động của hoạt động. Ngoài ra phải tính đến tính hiệu suất (efficiency) đối với giá trị của đồng tiền đã chi phí, chất lượng dịch vụ thể hiện qua khả năng đáp ứng và tính công bằng đối với các kênh tiếp cận hỗ trợ và kết quả.
Giám sát là một yếu tố quan trọng của đánh giá, giúp xác định mục tiêu đề ra đã đạt được hay chưa. Nếu chưa đạt được thì nó cũng lý giải tại sao. Thực tế công tác giám sát của Bộ bao quát các mặt: vấn đề việc làm trong thời gian trung hạn, các kết quả của giáo dục, đào tạo; chi phí hiệu lực, hiệu quả; các thông số về tiếp cận và kết quả mà các nhóm công bằng đang áp dụng; chất lượng dịch vụ được cung cấp (mức độ hài lòng). Người ta có thể sử dụng nhiều hình thức khảo sát, điều tra qua thư điện tử, điện thoại, điều tra các đối tượng tìm việc 03 tháng liên tiếp sau khi được hỗ trợ việc làm; các nhóm mới tìm việc được điều tra 02 tuần một lần. Hàng năm có tới 400.000 người tìm việc được điều tra, khảo sát. Trên cơ sở đó người ta có thể xếp các kết quả theo từng nhóm đối với từng chương trình.
Chất lượng của kết quả đánh giá cũng phụ thuộc vào thời gian, nhất là các chương trình cải cách, cần có thời gian mới thu được kết quả. Đánh giá đòi hỏi phải có nguồn lực nên cần kết hợp đánh giá nội bộ với đánh giá độc lập. Quan trọng là cần công bố kết quả đánh giá, phát hiện thì kết luận mới có tính thuyết phục. Có thể sử dụng các phương pháp đánh giá như: phân tích các dữ liệu có tính chất hành chính và dữ liệu điều tra; nghiên cứu mang tính quan sát; xác định các nhóm đối tượng cần tập trung; thu thập các dữ liệu định lượng; nghiên cứu tác động tuyệt đối và đánh giá tác động tuyệt đối (net impact: đo lường tính hiệu lực/ tác động do chính chương trình tạo ra, đánh giá sự khác biệt do chương trình tạo ra). Ôxtrâylia và quốc tế thường dùng đánh giá tác động tuyệt đối trong đánh giá tác động của chương trình. Kết quả đánh giá và những vấn đề được phát hiện trong quá trình đánh giá sẽ được áp dụng vào quản lý chương trình để nhằm cải thiện hiệu quả, xây dựng chính sách, so sánh với mức chuẩn để thấy rõ sự tiến bộ và nhân rộng những mô hình tốt.
4. Văn phòng Thủ tướng và Nội các
Chức năng của cơ quan này là tư vấn và hỗ trợ cho Thủ tướng, trong đó có việc định hướng cải cách hành chính và theo dõi việc thực hiện chính sách. Chính phủ luôn xem hệ thống GSĐG là một trong các ưu tiên và cần tập trung vào kết quả (outcome). Tăng cường sự phối hợp giữa Thủ tướng và các Thủ hiến bang thông qua Hội đồng chính quyền Ôxtrâylia (COAG) và có sự cam kết bằng văn bản thỏa thuận giữa Thủ tướng và Thủ hiến các bang. Những lĩnh vực ưu tiên là y tế, giáo dục, môi trường và cách thức điều hành mới trong quản lý đất nước và lĩnh vực cải cách khu vực công. Văn phòng có một đơn vị chuyên trách việc theo dõi thực hiện các chính sách, chương trình với sự hỗ trợ của hệ thống GSĐG. Hiện nay Văn phòng đang giám sát 70 chương trình về thực hiện các chính sách của Chính phủ và theo định kỳ 06 tuần phải báo cáo Thủ tướng về tiến độ. Trong thực tế việc thu thập các thông tin gặp nhiều khó khăn vì các thông tin, dữ liệu lại do từng Bộ quản lý và hệ thống GSĐG của từng cơ quan là độc lập. Cơ sở pháp lý để thực hiện GSĐG là bản thỏa thuận. Các tiêu chí xếp hạng đánh giá ở mỗi cơ quan cũng khác nhau: nếu như tiêu chí ở Bộ Giáo dục là xếp hạng mức độ sao (5 sao là tốt nhất và 1 sao là kém nhất) cho các cơ quan cung ứng dịch vụ thì ở Văn phòng Nội các lại có sáng kiến dùng tín hiệu đèn giao thông để theo dõi các chương trình: đèn xanh là hoạt động chính sách đúng hướng; đèn vàng là có vấn đề (trong đó một hoặc một số khâu của hoạt động chính sách phải được quan tâm sát sao); đèn đỏ là có vấn đề ở mức độ xấu…
*Nhận xét về các hệ thống GSĐG tại các cơ quan Chính phủ Ôxtrâylia
- Với mô hình và cách tiếp cận “Toàn bộ Chính phủ” (The Whole of Government ), ở tất cả các cơ quan nhà nước đều xây dựng và vận hành hệ thống GSĐG. Các hệ thống này đã được duy trì và phát triển bền vững trong suốt hơn 20 năm qua . Mặc dầu khuôn khổ thể chế của Ôxtrâylia về lĩnh vực này chưa phải là mạnh, không có luật quy định các báo cáo phải dựa vào kết quả GSĐG, nhưng các cơ quan đều thực hiện tuy ở mức độ khác nhau. Sự ràng buộc và cam kết được thực hiện qua bản thỏa thuận giữa cơ quan cấp dưới với cấp trên.Trước hết, điều này có lẽ là một biểu hiện sự ảnh hưởng của Anh, nhiều luật không thành văn mà vẫn được thực hiện như một thói quen. Mặt khác, các cơ quan, nhất là những người đứng đầu nhận thức rõ được lợi ích của hệ thống GSĐ. Những thông tin và kết quả đánh giá thực sự giúp ích cho công tác quản lý, điều hành và ra quyết định.
- Từ hệ thống GSĐG ban đầu được quản lý chặt chẽ do Bộ Tài chính làm đầu mối, qua thời gian và thực tiễn, hệ thống này đã được nới lỏng, phân cấp mạnh trở thành một hệ thống linh hoạt và khuyến khích tính tự chủ, tự nguyện và gắn với các ưu tiên của từng cơ quan thể hiện tính sát thực và tính hữu dụng tốt hơn của hệ thống đối với từng cơ quan, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống GSĐG phát triển bền vững. Có thể thấy sự tạo dựng một hệ thống chặt chẽ ban đầu là cần thiết nhằm bảo đảm sự tiếp cận đồng bộ, tạo ra thói quen và một nền tảng để hình thành văn hóa đánh giá. Thực tế hệ thống GSĐG tại Ôxtrâylia cho thấy không có mô hình nào thích hợp với mọi cơ quan, do vậy cần phải khuyến khích sự tìm tòi, cải tiến để hệ thống GSĐG trở thành công cụ phù hợp và hữu hiệu trong công tác đánh giá của từng cơ quan, đáp ứng các yêu cầu minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trước cơ quan dân cử và trước nhân dân.
- Xuất phát từ hạn hẹp về kinh phí hoạt động của các cơ quan Chính phủ, việc áp dụng các hệ thống GSĐG trong thực thi công việc đã giúp cho các cơ quan cải thiện được chi phí và hiệu quả. Các cơ quan đều có kế hoạch hàng năm và trung hạn, trong đó việc xác định các chỉ số đánh giá và các mục tiêu liên quan đến chỉ số (targets) đều được xác định trước. Đó chính là cơ sở để giám sát việc thực hiện và đánh giá khi làm báo cáo. Việc thường xuyên giám sát và đánh giá theo định kỳ (từ 3-5 năm) giúp cho các cơ quan xây dựng các báo cáo dựa trên bằng chứng, kết quả định tính và định lượng, từ đó có cơ sở để xây dựng dự toán ngân sách hàng năm một cách phù hợp. Các báo cáo hàng năm đều có các bảng biểu với các chỉ số đánh giá và các mục tiêu, đồ thị hóa rất rõ ràng. Qua đó thấy rõ GSĐG đã giúp cải thiện hiệu quả hoạt động cao hơn với cùng một nguồn lực được phân bổ.
- Nền công vụ Ôxtrâylia vốn có truyền thống về tính minh bạch, vì vậy việc áp dụng hệ thống GSĐG càng làm tăng tính công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của Chính phủ. GSĐG cũng tạo động lực cho các cơ quan trong nỗ lực hoàn thành công việc và tạo môi trường công khai, minh bạch trong việc đánh gia mức độ hoàn thành công việc của từng đơn vị , từng cơ quan và của từng cá nhân, kể cả công chức cao cấp thông qua các chỉ số đánh giá.
- Mặc dầu Ôxtrâylia là một trong số các nước đi tiên phong trong phát triển hệ thống GSĐG và được xếp vào hàng các quốc gia có văn hóa đánh giá cao nhất nhưng Chính phủ vẫn đòi hỏi tăng cường GSĐG và củng cố văn hóa đánh giá. Hệ thống GSĐG tuy đã có quá trình phát triển hơn 20 năm nhưng việc áp dụng ở các cơ quan chưa đồng đều, điều đó cho thấy việc xây dựng và phát triển hệ thống GSĐG không đơn giản, cũng như việc tạo dựng văn hóa đánh giá lại càng đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị và nỗ lực rất lớn.
- Việc thực hiện GSĐG cần phải có một nguồn lực thỏa đáng vì khá tốn kém, nhất là trong việc đánh giá độc lập. Vấn đề đặt ra là những thông tin, dữ liệu thu thập được phải hữu dụng và phù hợp với từng cấp quản lý và các kết quả đánh giá phải được khai thác, sử dụng triệt để và công bố công khai với công chúng. Đánh giá độc lập là một việc tốn kém nên trong trong đánh giá nội bộ có thể vận dụng các phương pháp tăng thêm tính độc lập, khách quan như thuê tổ chức bên ngoài thu thập dữ liệu, thông tin và tư vấn kỹ thuật .
- Đối với các cơ quan cung ứng dịch vụ công, ngoài việc áp dụng hệ thống GSĐG dựa trên kết quả cần phải sử dụng các phương pháp, công cụ hỗ trợ phù hợp thông qua các phương pháp điều tra, thăm dò dư luận, tổ chức hội thảo khách hàng…để đánh giá một cách chính xác sự hài lòng của người dân.
- Để xây dựng và vận hành hệ thống GSĐG cần phải xây dựng năng lực cho các công chức làm công tác GSĐG. Nền công vụ Ôxtrâylia có một đội ngũ công chức rất chuyên nghiệp và cơ cấu hợp lý, trong đó các công chức phụ trách GSĐG của từng chương trình, từng cơ quan đều rất chuyên nghiệp. Đây được xem là một yếu tố quan trọng và cơ bản để bảo đảm phát triển bền vững và khai thác hệ thống GSĐG một cách hiệu quả.
Nguyễn Mạnh Cường
Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ