Một số nét về hệ thống công vụ Vương quốc Thụy Điển
Vương quốc Thụy Điển (sau đây gọi tắt là Thụy Điển) là đất nước ở Bắc Âu, nằm trên bán đảo Xờ-can-đi-na-vi, phía Tây và Bắc giáp Na Uy, phía Đông giáp Phần Lan, phía Nam giáp biển Ban-tích và Đan Mạch.
Diện tích: 449.964 km2. Dân số: khoảng 9,4 triệu người. Thủ đô là Xtốc-khôm (Stockholm).
Thụy Điển là một nước quân chủ lập hiến với thể chế đại nghị. Thụy Điển cũng được biết đến là đất nước có chế độ tự quản địa phương và nền dân chủ phát triển mạnh mẽ.
Các đạo luật cơ bản của Thụy Điển là: Hiến pháp năm 1976, Luật Kế vị hoàng gia (Luật Kế tục), Luật Tự do báo chí và Luật Tự do ngôn luận.
Thụy Điển là thành viên của Liên minh châu Âu (năm 1995) và là thành viên của tổ chức OECD.
I. HỆ THỐNG TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC
1. Nguyên thủ quốc gia
Theo Luật Kế tục, Vua hoặc Nữ hoàng Thụy Điển là Nguyên thủ quốc gia. Từ tháng 9/1973, Nguyên thủ quốc gia của Thụy Điển là Vua Carl XVI Gustaf, không có quyền lực chính trị và không tham gia vào đời sống chính trị. Với tư cách là Nguyên thủ quốc gia, Vua/Nữ hoàng là người đại diện cho đất nước và chỉ tham gia các hoạt động mang tính chất nghi thức. Nguyên thủ quốc gia đóng vai trò là chủ nhà tiếp đón nguyên thủ quốc gia của các nước trong các chuyến thăm chính thức Thụy Điển. Vua/Nữ hoàng ký các ủy nhiệm thư cử các đại sứ của Thụy Điển tới các nước và tiếp nhận đại sứ của các nước tới Thụy Điển. Nguyên thủ quốc gia còn có nhiệm vụ tổ chức phiên họp hàng năm của Quốc hội (Riksdag). Vua/Nữ hoàng không tham gia vào các tranh luận cũng như không ký bất cứ quyết định nào của Chính phủ. Năm 1979, Luật Kế tục sửa đổi đã quy định người thừa kế là nam hay nữ đều có quyền bình đẳng trong việc kế vị ngai vàng. Từ năm 1980, quyền kế vị ngai vàng thuộc về người con trưởng bất kể là nam hay nữ.
2. Quốc hội (Riksdag)
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, Quốc hội ban hành luật, quyết định các loại thuế và cách thức đầu tư các nguồn lực của đất nước, giám sát Chính phủ và các cơ quan nhà nước. Thành viên của Quốc hội được nhân dân bầu thông qua phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu kín và đại diện đảng theo tỷ lệ phiếu bầu. Thành viên của Quốc hội có nhiệm kỳ là 4 năm.
3. Chính phủ
Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ (Statsminister) và các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng (Statsrad). Văn phòng Chính phủ (Regeringskansli) chịu trách nhiệm chuẩn bị các vấn đề cho Hội đồng. Thủ tướng bổ nhiệm các Bộ trưởng. Thụy Điển có 13 bộ, tuy nhiên có nhiều Bộ trưởng không phải là người đứng đầu của một bộ (Bộ trưởng không bộ). Chính phủ làm việc theo nguyên tắc thảo luận và ra các quyết định tập thể.
4. Hệ thống tư pháp
Hệ thống tư pháp độc lập với Quốc hội và Chính phủ. Tòa án Tối cao của Thụy Điển là cấp xét xử thứ 3 và có thẩm quyền quyết định cuối cùng đối với tất cả các vụ án về dân sự và hình sự. Toàn án Tối cao (Hogsta Domstolen) là tòa có thẩm quyền chung cấp cao nhất trong hệ thống tư pháp, còn Hội đồng Chính phủ là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong xét xử các vụ án hành chính. Thành viên của Tòa án Tối cao và Hội đồng Chính phủ được bổ nhiệm là thẩm phán suốt đời.
5. Tổ chức chính quyền địa phương
+ Chính quyền cấp tỉnh: Thụy Điển là nhà nước đơn nhất, bao gồm 21 tỉnh (Län), trong số đó có 2 vùng lớn do các tỉnh nhỏ hơn sát nhập lại, mỗi tỉnh hoặc vùng có Ủy ban hành chính tỉnh hoặc vùng đại diện cho chính quyền Trung ương trong một số lĩnh vực (Ủy ban hành chính đầu tiên được thành lập bởi Thủ tướng Thụy Điển Axel Oxenstierna vào năm 1634). Mỗi tỉnh cũng có một Hội đồng do người dân trực tiếp bầu ra.
+ Chính quyền thành phố (Municipalities or kommuner): Thụy Điển có 290 thành phố.
Chính quyền thành phố được thành lập bởi Hội đồng lập pháp của thành phố (gọi là kommunfullmäktige), các thành viên của Hội đồng này (tổng số thành viên luôn là số lẻ) được bầu theo phổ thông đầu phiếu theo nhiệm kỳ 4 năm. Các thành phố này được chia thành các xã (församlingar), cả nước có tổng cộng 2.512 xã.
6. Hành chính công
6.1. Hành chính Trung ương:
Ở Thụy Điển, hành chính nhà nước được tổ chức thành hai cấp độ: a) Các bộ; b) Các cơ quan của chính quyền Trung ương.
a) Các bộ có chức năng hỗ trợ các hoạt động của Chính phủ, bao gồm từ việc điều tra ban đầu, xây dựng và giám sát việc thực hiện các mục tiêu hoạt động của chính quyền Trung ương.
b) Đa số công chức làm việc cho Chính phủ trong các cơ quan của chính quyền Trung ương, các cơ quan này có thể có văn phòng ở Trung ương, ở cấp vùng và địa phương. Các cơ quan này là các đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm cho hầu hết các hoạt động vận hành nền hành chính công của Thụy Điển. Mỗi cơ quan được quản lý bởi một người quản lý điều hành và thường có một Ban Quản trị do Chính phủ bổ nhiệm. Các cơ quan này thuộc các Bộ nhưng có mức độ tự chủ cao trong việc ra các quyết định liên quan đến tổ chức, nguồn lực và nhân sự của mình để thực hiện các mục tiêu đề ra. Theo Hiến pháp Thụy Điển, các Bộ trưởng không được phép can thiệp trực tiếp vào hoạt động hàng ngày của các cơ quan của Chính phủ.
6.2. Hành chính vùng:
Hành chính nhà nước ở cấp vùng được phân chia giữa Ủy ban hành chính tỉnh và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác với các tổ chức vùng (như Ủy ban Bảo hiểm xã hội, Cảnh sát, Cơ quan việc làm quốc gia…). Ủy ban hành chính tỉnh đóng vai trò là cơ quan cấp vùng của các cơ quan Trung ương.
Hội đồng tỉnh cung cấp dịch vụ giao thông vận tải và y tế ở cấp khu vực…, đô thị cung cấp toàn bộ các loại hình dịch vụ và chính sách của địa phương. Ngày nay, Tỉnh trưởng (Landshövding) chịu trách nhiệm quản lý nhà nước trong tỉnh khi chức năng này không được trao cho một cơ quan khác.
Đô thị tự quản: Các đô thị/thành phố (Kommuner) có quyền hạn tương đối rộng, như có quyền đặt ra các loại thuế và thu thuế, hầu hết người dân ở các đô thị chỉ đóng các loại thuế cho thành phố. Hội đồng thành phố (Kommunfullmäktige) do người dân bầu, ban hành các quyết định của thành phố. Thẩm quyền của thành phố được quy định trong Luật Chính quyền địa phương.
Hiến pháp Thụy Điển quy định mối quan hệ giữa quyền ra quyết định và quyền hành pháp. Luật Chính quyền địa phương năm 1992 của Thụy Điển quy định về sự phân chia thành các thành phố và các tổ chức, cũng như quyền hạn của các thành phố và Hội đồng tỉnh. Ngoài ra Luật Chính quyền địa phương còn quy định về đại biểu dân cử, hội đồng thành phố, Ban điều hành và các văn phòng của thành phố.
II. HỆ THỐNG CÔNG VỤ
1. Cơ sở pháp lý: Cơ sở pháp lý của hệ thống công vụ Thụy Điển bao gồm Luật Công vụ năm 1994 bao gồm các quy định cơ bản (quyền và nghĩa vụ đối với công chức) và Luật Việc làm năm 1994 quy định về các biện pháp kỷ luật đối với công chức nhà nước.
Nhìn chung, các quy tắc về việc làm áp dụng đối với công chức và người lao động trong khu vực tư ở Thụy Điển là như nhau. Mặc dù công chức được hưởng một số điều kiện đặc biệt, song không có một quy định nào về địa vị pháp lý chính thức dành riêng cho họ.
2. Cấu trúc: Theo nguyên tắc chung, các quy tắc về việc làm dành cho khu vực công và khu vực tư là như nhau. Pháp luật Thụy Điển không điều chỉnh nhiều khía cạnh của công vụ, ngoại trừ trách nhiệm của công chức. Như các khu vực khác của thị trường lao động, điều kiện làm việc trong khu vực công của Thụy Điển được dựa trên các thỏa thuận của ngành. Các thỏa thuận này được quy định chi tiết và đầy đủ các phương diện hơn so với quy định của luật.
3. Cơ quan quản lý việc làm trong khu vực công. Ở Thụy Điển, Chính phủ đã giao hầu hết trách nhiệm quản lý việc làm cho 250 cơ quan thuộc chính quyền trung ương. Mỗi cơ quan tự tuyển dụng, quản lý và sa thải nhân viên của mình, ngoại trừ người đứng đầu các cơ quan này do Chính phủ bổ nhiệm. Hệ thống chức nghiệp vẫn còn tồn tại trong một vài cơ quan như ngoại giao, cảnh sát và lực lượng vũ trang.
Mỗi cơ quan được lãnh đạo bởi một quan chức điều hành do Chính phủ bổ nhiệm, theo nhiệm kỳ 6 năm. Đôi khi một chính trị gia cũng được bổ nhiệm làm Tổng Cục trưởng. Ban quản trị của một cơ quan bao gồm người đứng đầu của cơ quan, một số quan chức cấp cao hoặc đại diện của tổ chức, các nhóm dân cư và đôi khi có cả các chính trị gia. Tất cả các thành viên Ban quản trị do Chính phủ bổ nhiệm. Còn lại hầu hết các công chức khác do các cơ quan tuyển dụng.
Các Bộ hoặc Bộ trưởng không thể can thiệp vào việc giải quyết các công việc của các cơ quan. Các cơ quan của chính quyền trung ương sẽ kiến nghị với Chính phủ về việc điều chỉnh các quy định pháp luật liên quan đến các lĩnh vực thuộc chức năng nhiệm vụ của các cơ quan này. Chính phủ Thụy Điển giao vai trò điều phối các chính sách sử dụng lao động của chính quyền trung ương và vai trò đàm phàn với các nghiệp đoàn trên phạm vi cả nước cho Cơ quan sử dụng lao động công của Thụy Điển (SAGE).
SAGE được thành lập vào ngày 01/7/1995, có 250 cơ quan thành viên thuộc khu vực chính quyền trung ương, các thành viên khác bao gồm các tổ chức xã hội mà chủ yếu là các quỹ.
Cơ quan quản lý cao nhất của SAGE là Hội đồng những người sử dụng lao động (Hội đồng), được triệu tập mỗi năm một lần. Hội đồng được tạo thành từ 250 người đứng đầu của các cơ quan thành viên (gồm các Tổng Cục trưởng, Hiệu trưởng và Tỉnh trưởng). Hội đồng quyết định các chính sách sử dụng lao động và phí hội viên. Hội đồng cũng bổ nhiệm 15 thành viên Ủy ban. Ủy ban SAGE đóng vai trò trung tâm trong các cuộc đàm phán lương với nghiệp đoàn, là cơ quan tối cao của các cuộc họp Hội đồng. Không giống như những người đứng đầu điều hành khác, do Chính phủ bổ nhiệm, Tổng Giám đốc của SAGE do ủy ban bổ nhiệm.
SAGE được chia thành 9 ngành, mỗi ngành do một đoàn đại biểu ngành đại diện. Đoàn đại biểu là cơ quan tư vấn cho Ủy ban và Tổng Giám đốc.
Phân nhóm công chức (nhân viên Chính phủ): Các công chức cấp cao do Chính phủ bổ nhiệm có thể được chia thành hai nhóm:
1. Nhóm thứ nhất bao gồm các cán bộ điều hành tại các cơ quan như Tổng Cục trưởng (Director-Generals), Tỉnh trưởng, Thủ trưởng cơ quan trực thuộc Chính phủ, Phó Hiệu trưởng các trường đại học và cao đẳng, Phó Tổng Cục trưởng, Phó Tỉnh trưởng và Giám đốc các sở (County Directors) (khoảng 280 người).
2. Nhóm thứ hai bao gồm các Quốc vụ khanh và Tổng Cục trưởng trong các bộ có chức năng hỗ trợ về hành chính và pháp lý cho các thành viên của Chính phủ (khoảng 80 người).
Theo số liệu thống kê: Theo Cơ quan sử dụng lao động của Chính phủ Thụy Điển, trong năm 2009, có 236.000 người thuộc biên chế nhà nước. Cơ cấu giới tính là 50/50. Công chức cấp cao bao gồm khoảng 360 người. Hơn nữa có một nhóm các nhà quản lý trực tiếp báo cáo các Tổng Cục trưởng và có thủ trưởng các phòng, ban tại cơ quan của chính quyền trung ương. Số lượng người trong nhóm này có thể được ước tính vào khoảng 2.600 người trong tổng số 12.600 cán bộ quản lý trong chính quyền trung ương, trong số đó nữ giới có khoảng 4.800 người chiếm gần 38%.
4. Quyền và nghĩa vụ của công chức
Công chức Thụy Điển có quyền tham gia các nghiệp đoàn nhưng họ lại không thích sự bảo đảm về việc làm. Việc giảm biên chế có thể được thực hiện nếu có "lý do chính đáng" (như việc tổ chức lại các phòng ban). Từ năm 1991, Quỹ An ninh việc làm giúp cho những công chức đã bị sa thải có đủ điều kiện và hướng dẫn họ tìm kiếm việc làm mới trên thị trường lao động.
Các cơ quan truyền thông được quyền giám sát tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan công quyền, ngoại những thông tin bí mật. Quyền được tiếp cận thông tin trao cho người dân cơ hội tiếp cận văn kiện của các cơ quan công quyền và thông qua đó kiểm tra, giám sát các cơ quan này.
Công chức Chính phủ có quyền tự do thể hiện rất lớn. Họ có quyền tự do công bố thông tin về các hoạt động của cơ quan, với điều kiện đó không phải là các thông tin bí mật. Điều này cũng đồng nghĩa với quyền gửi thông tin cho các phương tiện truyền thông đại chúng.
Công chức cũng được công nhận quyền thương lượng tập thể, quyền tự do tham gia nghiệp đoàn và đình công.
5. Hệ thống chức nghiệp (Career-Based System)
Trong hầu hết các cơ quan nhà nước, hệ thống chức nghiệp chính thức đã được bãi bỏ từ những năm 1990. Thay vào đó là hệ thống công vụ dựa trên vị trí việc làm trong đó việc bổ nhiệm mới vào các vị trí được thực hiện dựa trên sự cạnh tranh về năng lực có trên thị trường lao động. Tuy nhiên hệ thống chức nghiệp vẫn tồn tại trong các văn phòng ở nước ngoài, trong các cơ quan quốc phòng và cảnh sát.
Đào tạo, bồi dưỡng: Nhìn chung, những người làm việc trong khu vực công ở chính quyền trung ương được tham gia nhiều khóa đào tạo, bồi dưỡng hơn so với những người lao động ở khu vực khác. Năm 2008, thời gian dành cho đào tạo, bồi dưỡng công chức chiếm 3,6% tổng số thời giờ làm việc trong khu vực chính quyền trung ương, trong khi đó con số tương ứng cho toàn bộ thị trường lao động là 2,1%. Số lượng nhân viên tham gia đào tạo ở khu vực chính quyền trung ương tương đối lớn chiếm 57% so với 46% của cả thị trường lao động.
Thời gian đào tạo trung bình đối với công chức là 6 ngày, còn của thị trường lao động là 4 ngày. Theo số các cuộc điều tra được tiến hành qua các năm khác nhau được công bố, từ năm 2006, tỉ lệ thời giờ làm việc, thời gian tham gia đào tạo, bồi dưỡng và thời gian đào tạo, bồi dưỡng trung bình đều giảm đối với tất cả các khu vực của thị trường lao động, ngoại trừ Hội đồng tỉnh.
5. Tiền lương
Thụy Điển không có quy định về hệ thống tiền lương quốc gia, do đó mỗi cơ quan quản lý công chức tự chịu trách nhiệm quản lý đối với ngân sách của mình, quyết định một phần tiền lương của công chức.
Các thỏa ước tập thể được đàm phán ở cấp trung ương, sau đó ở từng cơ quan và cuối cùng là thương lượng với từng cá nhân người lao động với mục đích là đảm bảo thù lao được trả là cạnh tranh trên toàn bộ thị trường lao động khi thực hiện cùng một loại hoạt động.
Do đó, Chính phủ chỉ quyết định tiền lương đối với công chức cấp cao. Hiệp định khung về tiền lương chung được xác định ở cấp trung ương bởi các đối tác xã hội ở cấp quốc gia và việc đàm phán chi tiết hơn được thực hiện trong mỗi cơ quan ở cấp địa phương.
Tiền lương của thủ trưởng các cơ quan của chính quyền trung ương được quyết định tùy theo năng lực và kinh nghiệm của họ. Tiền lương được trả cũng được căn cứ vào áp lực công việc, ngân sách, mức độ phức tạp, kết quả công việc và sự đánh giá hàng năm.
6. Đối thoại xã hội và hệ thống đại diện
Hiệp định 1966 quy định cho công chức quyền thương lượng về tiền lương và điều kiện làm việc. SAGE đại diện cho nhà nước, là một cơ quan quốc gia chịu trách nhiệm độc lập đối với các thỏa thuận với người lao động.
Tất cả các cơ quan nhà nước đều là thành viên bắt buộc của SAGE (được tài trợ hoàn toàn từ phí hội viên). Công chức ở chính quyền trung ương được đại diện bởi ba tổ chức công đoàn.
Hiệp định cơ bản và Hiệp định hợp tác được thiết lập giữa SAGE và các nghiệp đoàn đối với khu vực chính quyền trung ương phải được Chính phủ phê duyệt. Các hiệp định này điều chỉnh các quá trình đàm phán mức lương và điều kiện chung về việc làm cũng như quy định các bên có thể hành động như thế nào khi xảy ra bãi công.
Khuôn khổ các cuộc đàm phán về lương và điều kiện làm việc được thực hiện trước tiên ở cấp trung ương giữa SAGE và các nghiệp đoàn. Các bên ký kết các thỏa ước ở cấp trung ương, thiết lập khuôn khổ và điều kiện tiên quyết cho việc đàm phán về lương tại địa phương. Các thỏa thuận ở cấp trung ương tạo khuôn khổ tương đối rộng cho các cơ quan tùy chỉnh các điều khoản điều kiện của mình trong thoả ước tập thể của địa phương. Với việc ký kết các thỏa ước ở trung ương, các bên cam kết không bãi công.
Các cuộc đàm phán ở địa phương giữa bên sử dụng lao động và các nghiệp đoàn địa phương được tiến hành theo sau việc ký kết các thỏa ước ở trung ương. Bãi công không được diễn ra trong thời gian tiến hành đàm phán. Mức lương mới cho người lao động được quyết định trong hoặc sau buổi thương lượng giữa các bên. Hơn nữa, thông qua thỏa ước tập thể các điều kiện làm việc khác như thời giờ làm việc, trợ cấp y tế... có thể được điều chỉnh phù hợp với điều kiện ở từng địa phương. Thoả ước tập thể ở địa phương quy định cụ thể các hình thức hợp tác giữa người sử dụng lao động và các nghiệp đoàn địa phương cũng có thể được ký kết. Các thỏa ước có tính bắt buộc trực tiếp khác ở trung ương bao gồm sự bảo đảm việc làm, điều chỉnh lương hưu và các điều kiện làm việc chung khác cũng được ký kết.
7. Công chức cấp cao (Senior Civil Servants - SCS)
Không có quy định chính thức nào về địa vị của công chức cấp cao ở Thụy Điển. Công chức cấp cao được chia thành 2 nhóm. Nhóm thứ nhất bao gồm các vị trí: Tổng Cục trưởng, Thống đốc và các vị trí cấp cao khác như thủ trưởng các cơ quan ở Trung ương hoặc Phó Hiệu trưởng các trường đại học. Nhóm thứ hai bao gồm các Quốc vụ khanh (State Secretaries) và các Phó Quốc vụ khanh (Deputy Secretaries).
Chức trách |
Chức danh |
Bộ phận của SCS? |
Bổ nhiệm các vị trí chính trị |
Mức 1 |
- Quốc vụ khanh - Tổng Cục trưởng |
Có |
Có |
Mức 2 |
- Tổng Cục trưởng - Tỉnh trưởng - Thủ trưởng các cơ quan ở Trung ương - Phó Hiệu trưởng các trường đại học |
Có |
Không |
Tuyển dụng: Việc tuyển dụng công chức cấp cao được tiến hành trong nội bộ các Bộ, từ các cơ quan của Chính phủ hoặc từ khu vực tư căn cứ vào yêu cầu về năng lực, khả năng lãnh đạo và kinh nghiệm làm việc đối với chức vụ cần tuyển. Các Quốc vụ khanh được bổ nhiệm vào các vị trí chính trị. Ở các cơ quan của Chính phủ, Tổng Cục trưởng do Chính phủ bổ nhiệm và được lựa chọn trên cơ sở năng lực và thành tích của các ứng viên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các chính trị gia cũng có thể được bổ nhiệm làm Tổng Vụ trưởng.
Quản lý: ở Thụy Điển, Chính phủ đã giao hầu hết trách nhiệm của người sử dụng lao động cho các cơ quan của Chính phủ (thực hiện các công việc của nền hành chính trung ương). Mỗi cơ quan được cấp ngân sách riêng và tự thuê nhân viên. SAGE giữ vai trò điều phối về việc làm đối với các vị trí cấp cao và thương lượng với các nghiệp đoàn.
Đánh giá: Hầu hết các chính sách quản lý nguồn nhân lực của Chính phủ gần đây đều quy định việc gia tăng mối quan hệ giữa Bộ quản lý và thủ trưởng các cơ quan liên quan trên cơ sở tiến hành đối thoại thường xuyên. Các cuộc đối thoại tập trung phân tích các kỹ năng cá nhân và kỹ năng quản lý của mỗi công chức cấp cao. Mỗi cơ quan phải đánh giá từng nhóm nhân viên và phải đưa ra các tiêu chí cơ bản cho các đánh giá này
Đào tạo và các chương trình đào tạo lãnh đạo: Bộ Tài chính chịu trách nhiệm phát triển các chương trình đào tạo và đào tạo lãnh đạo. Các chương trình này không bắt buộc đối với các cơ quan. Các khóa học với mục đích phát triển kỹ năng lãnh đạo của công chức cấp cao và mỗi cơ quan có trách nhiệm cung cấp các hướng dẫn cần thiết về công vụ để thủ trưởng các cơ quan này có thể thực hiện chúng. Việc đào tạo này được thực hiện ở các trung tâm đào tạo nội bộ hoặc trung tâm bên ngoài.
Luân chuyển: Vì các công chức cấp cao được tuyển dụng theo hợp đồng có thời hạn nên việc luân chuyển thường không dễ tiến hành. Thủ trưởng các cơ quan hoặc các vị trí tương đương thường được bổ nhiệm 6 năm và có thể được gia hạn thêm 3 năm. Sau khi hết hạn việc luân chuyển công chức từ các cơ quan sang các khu vực khác được tiến hành thuận lợi hơn.
Chính sách đa dạng và bình đẳng: Thụy Điển có chính sách đa dạng và bình đẳng giới trong cán bộ, công chức nói chung và giữa các công chức cấp cao nói riêng.
Thời giờ làm việc: công chức cấp cao được áp dụng chế độ thời giờ làm việc linh hoạt, trung bình không quá 39 giờ 45 phút/tuần. Công chức cấp cao có thể làm việc qua điện thoại, tuy nhiên trong thực tế, họ phải tham dự rất nhiều cuộc họp và hội nghị do đó làm giảm khả năng làm việc ở nhà của họ.
Thụy Điển cũng có ưu đãi pháp lý cho công chức hành chính có thể áp dụng chính sách làm việc bán thời gian và thời gian làm việc linh hoạt
Trợ cấp nghỉ phép: Người lao động được quyền nghỉ phép để chăm sóc con cái, trong trường hợp đó họ được Cơ quan bảo hiểm xã hội Thụy Điển chi trả trợ cấp nghỉ phép. Cơ quan sử dụng lao động sẽ chi trả trợ cấp bổ sung nhưng tổng số tiền chi trả không quá 90% thu nhập của người lao động trong thời gian nghỉ phép. Người lao động có con nhỏ cũng có thể làm việc bán thời gian.
Chế độ thai sản: Những người mới sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thụy Điển trả trợ cấp cho tổng số 480 ngày. 390 ngày mức trợ cấp tối đa được trả bằng 80% của mức trần thu nhập. Nhân viên Chính phủ được trợ cấp bổ sung từ cơ quan sử lao động cho tối đa 360 ngày. Mức chi trợ cấp bổ sung tương ứng với 90% của thu nhập của công chức. Ngoài ra, công chức cũng có thể được thanh toán thêm cho 90 ngày với mức trợ cấp thấp nhất (khoảng 180 SEK/ngày)
Trợ cấp tạm thời cho cha mẹ chăm sóc con ốm: Một nhân viên yêu cầu nghỉ phép để chăm sóc con ốm nhận được trợ cấp chăm sóc trẻ ốm từ Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thụy Điển là 80% mức trần thu nhập của họ. Cơ quan sử dụng lao động của Chính phủ trả trợ cấp bằng 80% tổng thu nhập của người lao động trong những ngày nghỉ phép.
Các cải cách gần đây và triển vọng
Cải cách ở Thụy Điển dựa trên đối thoại xã hội, đẩy mạnh hợp tác, sự minh bạch và tăng cường quyền hạn của công chức. Năm 1999, hệ thống lương hưu chung mới cho tất cả thị trường lao động đã được triển khai ở Thụy Điển. Cuộc cải cách này tạo ra hai hệ thống đóng góp bắt buộc, trong đó tất cả những người lao động sinh sau năm 1954 sẽ ở độ tuổi 61 sau năm 2015 sẽ theo hệ thống lương hưu mới. Điểm nổi bật của hệ thống này là cơ chế đánh giá lương hưu tự động, do đó các mức đóng góp sẽ phù hợp với các yêu cầu hiện tại hơn. Năm 2003, hệ thống lương hưu bổ sung được thực hiện bởi một thỏa ước có tính bắt buộc giữa các đối tác xã hội và các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương./.
Nguyễn Thu Hà
Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ
Tài liệu tham khảo:
1. Public Employment in European Union Member States, 2010
2. http://www.sweden.se
3. http://www.goverment.se
4. http://www.skl.se