Báo cáo kết quả nghiên cứu, khảo sát về chế độ công chức, công vụ của New Zealand
Từ ngày 19/01 đến ngày 23/01/2014, Đoàn công tác của Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ đã tổ chức chuyến nghiên cứu, khảo sát tại New Zealand.
Các nội dung Đoàn công tác đã làm việc với các cơ quan tại New Zealand về chế độ công chức, công vụ bao gồm: Trao đổi về hệ thống công vụ của New Zealand; Hình thức thi tuyển công chức của New Zealand và công tác đào tạo, bồi dưỡng cho độ ngũ công chức quốc gia; Nội dung và phương pháp đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của đội ngũ công chức cấp cao trong các bộ ngành, Chính sách thu hút nhân tài vào nền công vụ; Cơ chế quản lý và chế độ, chính sách đãi ngộ đối với công chức cấp cao; và Triển vọng hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức trong nền công vụ.
Dưới đây là Báo cáo kết quả nghiên cứu, khảo sát về chế độ công chức, công vụ của New Zealand.
1. KHÁI QUÁT VỀ NEW ZEALAND
1.1. Sơ lược địa lý, lịch sử và tình hình kinh tế - xã hội của New Zealand
New Zealand là một quốc gia nằm ở Tây Nam Thái Bình Dương có tổng diện tích là 267,710 km2 với dân số 4.365.113 người (tính đến tháng 7/2013) (CIA, 2014). Thủ đô của New Zealand là Wellington. Phần lớn đất đai là đồi núi, sông ngòi, hồ chứa nước và đồng bằng thấp. Khí hậu đa dạng, mang tính chất khí hậu biển, ôn đới và bán nhiệt đới.
Người Maori thuộc chủng tộc Polynesia ở Thái Bình Dương đã phát hiện ra New Zealand vào khoảng thế kỷ thứ 10. Năm 1769, thuyền trưởng James Cook thuộc Hải quân Hoàng gia Anh đã đến thám hiểm, đổ bộ lên đảo và tuyên bốNew Zealand là đất của Nhà vua Anh. Người Anh và người Maori đã thoả hiệp và ký Hiệp định Waitangi ngày 06/02/1840 theo đó người Maori công nhận việc Hoàng gia Anh bảo hộNew Zealand để đổi lại việc Hoàng gia Anh thừa nhận quyền sở hữu đất đai của người Maori.
New Zealand có cơ sở kinh tế nông, công nghiệp phát triển, trong đó chăn nuôi giữ vai trò quan trọng. Tỷ trọng các ngành trong GDP: nông nghiệp 4,7%; công nghiệp 27,8%, dịch vụ 67,6%. 3/4 sản phẩm nông nghiệp hàng năm dùng để xuất khẩu. Thu nhập bình quân đầu người khoảng 29.500 đô-la Mỹ (2012) và tốc độ tăng trưởng GDP năm 2012 đạt 2,7% (CIA, 2014). Đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) vào New Zealand chủ yếu đến từ Ô-xtrây-lia, Nhật Bản, Xinh-ga-po, Anh, Mỹ, tập trung vào các lĩnh vực như sản xuất, xây dựng và du lịch. New Zealand được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) xếp hạng cao về khả năng cạnh tranh.
1.2. Thể chế chính trị
Hiến pháp New Zealand là nền tảng của hệ thống luật được hợp thành bởi một số đạo luật quan trọng, các quyết định tư pháp và các thông luật.
New Zealand không có một bản hiến pháp thành văn duy nhất. Các quy định của Hiến pháp nằm rải rác trong nhiều văn bản. Các văn bản này, cùng với các tiền lệ pháp của New Zealand cấu thành hiến pháp quốc gia. Các văn bản quan trọng trong hiến pháp của nước này bao gồm Luật Hiến pháp 1986, Điều luật về các quyền của New Zealand 1990, Luật Bầu cử 1993, Thỏa ước Waitangi và quy định về thứ bậc trong Hạ viện. Luật Hiến pháp năm 1986 là hiến chương chính thức và được thông qua vào ngày 01/01/1987.
Hệ thống luật pháp của New Zealand bắt nguồn từ hệ thống luật của Anh và gồm hai nguồn cơ bản: (i) Thông luật, đây là một bộ phận luật hình thành từ các quyết định do nước Anh và New Zealand đưa ra. Hiện nay, một số quy định của tòa án New Zealand đã được quy định khác đi so với nước Anh, so với trước kia, đây là điểm tiến bộ; (ii) Luật hiến định, luật này do Nghị viện soạn thảo.
Một yếu tố không thể tách rời trong hệ thống luật là sự phân chia rất rõ ràng ba nhánh quyền lực của chính phủ. Việc phân chia như vậy nhằm đảm bảo sự phụ thuộc và giám sát lẫn nhau trong phạm vi các quy định của hiến pháp. Tuy các nhánh quyền lực được phân chia rõ ràng nhưng chúng không tồn tại đơn độc mà có tương tác qua lại với nhau.
Nghị viện New Zealand được xây dựng trên nền tảng hệ thống Nghị viện Westminster nổi tiếng của Anh. Nghị viện là cơ quan có quyền lập pháp cao nhất ở New Zealand. Cơ cấu Nghị viện gồm hai thành phần chính là Nguyên thủ Quốc gia New Zealand (Nữ hoàng Elizabeth II) thông qua đại diện là Toàn quyền, và Hạ viện. Toàn quyền được chỉ định trong phạm vi các vùng do Nữ hoàng nắm chủ quyền (trừ vùng Tokelau, đại diện của vùng không phải là Toàn quyền của Nữ hoàng) dựa trên đề xuất của Thủ tướng và theo nhiệm kỳ 5 năm.Toàn quyền thực thi quyền lực hoàng gia của nữ hoàng (các đặc quyền) theo quy định trong Thông cáo của Hoàng gia Letters Patent 1983. Trong khi đó, Nghị viện New Zealand chỉ có một viện, gọi là Viện Dân biểu. Viện Dân biểu đồng thời là Hội đồng Lập pháp, tuy nhiên Hội đồng này đã bị giải thể năm 1951. Một trăm hai mươi Thành viên của Nghị viện đã được bầu vào Hạ viện theo nhiệm kỳ 3 năm tại Tòa nhà Nghị viện ở Wellington. Công dân New Zealand từ 18 tuổi trở lên có quyền bỏ phiếu bầu cử để trở thành Thành viên Nghị viện. Đây chính là cách thức người dân đóng góp tiếng nói của mình vào việc quản trị quốc gia.
Nhánh Hành pháp bao gồm Thủ tướng, Nội các và toàn bộ khu vực công. Nhánh Hành pháp đóng vai trò điều khiển Chính phủ, quyết định các chính sách và quản lý các vụ việc pháp lý. Tất cả các dự luật và chính sách quan trọng của Chính phủ hoặc do Nội các đề xuất hoặc phải được Nội các chấp thuận. Nội các đồng thời điều phối công việc của các Bộ trưởng. Cơ cấu của Nội các do Thủ tướng quyết định, gồm các Bộ trưởng, những người là thành viên của đảng hoặc liên minh đảng cầm quyền trong Nghị viện. Thông thường mỗi một Bộ trưởng Nội đứng đầu một hoặc nhiều bộ, và đồng thời cũng có các Bộ trưởng không bộ, không phải đảm trách về dài hạn trách nhiệm cụ thể đối với bất kỳ một bộ nào.
Nhánh tư pháp hoạt động độc lập là một nguyên tắc quan trọng quy định trong hiến pháp New Zealand. Nguyên tắc này đảm bảo các quyết định tư pháp không phải chịu tác động của bất cứ quyền lực nào và phán quyết công tâm, hợp pháp. Trong quy định về thứ bậc trong Hạ viện (và các quy định của Hạ viện) đã nêu rõ cấm tuyệt đối các nghị sỹ chỉ trích thẩm phán trên tư cách cá nhân. Trong trường hợp phán quyết của một thẩm phán gây ra nhiều tranh cãi thì nghị sỹ có thể yêu cầu tổ chức một phiên tòa để xem xét một dự luật để thay đổi điều luật hiện tại về vấn đề gây ra tranh cãi.
Chính quyền địa phương của New Zealand gồm 78 hội đồng các cấp, chia thành 11 hội đồng vùng, 61 cơ quan quản lý lãnh thổ (11 hội đồng thành phố và 50 hội đồng quận) và 6 hội đồng thống nhất có chức năng như hội đồng vùng (NZ's Local Government, 2014).
New Zealand được chia theo địa lý lãnh 61 đơn vị bỏ phiếu và 6 đơn vị bỏ phiếu Maori. Đồng thời cũng có 53 ghế dành cho danh sách nghị sỹ.Số lượng đơn vị bầu cử thay đổi tùy theo biến động dân số. Cử tri được chia theo khu vực dân cư nơi mình sinh sống và bỏ phiếu tại đó. Người Maori được quyền chọn bầu cử theo hệ thống tuyển cử phổ thông hoặc theo hệ thống Maori. Số lượng ghế dành cho người Maori có thể thay đổi khi số cử tri Maori trong danh sách cử tri Maori thay đổi.
2. NỀN CÔNG VỤ CỦA NEW ZEALAND
2.1. Khái quát nền công vụ của New Zealand
2.1.1. Khu vực Nhà nước
Khu vực nhà nước bao gồm Nền Công vụ New Zealand (gồm 29 bộ ngành chính phủ, các cơ quan Hoàng gia và các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước). Khu vực Nhà nước đồng thời bao gồm Cảnh sát New Zealand và Lực lượng Phòng vệ New Zealand. Nền Công vụ có đặc điểm là gồm các bộ có quy mô khá nhỏ, quy định rõ ràng về vai trò tham mưu chính sách, cung cấp dịch vụ, điều tiết hoặc chức năng cấp ngân sách cho ngành (Government of New Zealand, 2014).
Các bộ ngành và Bộ trưởng Hoàng gia
Các bộ ngành đã được cải cách phân định rõ vai trò, chức năng và chịu trách nhiệm hoạch định chính sách, tổ chức mua sắm các dịch vụ, thiết kế và quản lý các “hợp đồng” dịch vụ và quản lý các “hợp đồng” với các tổ chức của Hoàng gia (các cơ quan hành pháp) và các nhà cung cấp khác. Các bộ trưởng Hoàng gia do Toàn quyền chỉ định theo đề xuất của Thủ tướng và phải là nghị sỹ. Tất cả các quyết định cơ bản đều phải được đưa ra thảo luận và thông qua theo quy trình của Nội Các và các cuộc họp Nội các là các cuộc họp kín. Tất cả các bộ trưởng đều là thành viên của Hội đồng Hành pháp.
Các tổ chức của Hoàng gia
Các tổ chức của Hoàng gia (các cơ quan hành pháp) thường đảm nhiệm một trong hai chức năng là cung cấp dịch vụ hoặc quản lý, điều hành. Một số cơ quan quản lý điều hành có các chức năng đặc biệt cần chính phủ phải trao quyền tự chủ ở mức độ nhất định, chẳng hạn như Ủy ban Thương mại, Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề riêng tư, Chủ nhiệm Ủy ban nhân quyền, Chủ nhiệm Ủy ban các mối quan hệ về giống nòi.
Nội các
Nội các là cơ quan ra quyết định ở cấp trung ương trong nhánh hành pháp, có vai trò ra quyết định về (i) các vấn đề chính sách; (ii) dự toán chi tiêu; (iii) đề xuất các điều luật hoặc quy định mới; (iv) các lĩnh vực cần đến sự phối hợp đa ngành; (v) các thỏa ước và hiệp ước quốc tế. Nội các có nhiều ủy ban giữ các vai trò khác nhau.
2.1.2. Chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương của New Zealand gồm tổng cộng 78 hội đồng gồm các hội đồng cấp địa phương, cấp vùng và các hội đồng thống nhất (NZ's Local Government, 2014).
Thành viên trong các hội đồng này được cử tri trong phạm vi quản lý bỏ phiếu bầu theo nhiệm kỳ 3 năm để đại diện cho quyền lợi của người dân. Hội đồng sẽ tuyển dụng một Tổng giám đốc (Chief Executive) để điều hành các công việc chung của Hội đồng. Tổng giám đốc tuyển dụng các nhân viên quản lý cấp dưới và nhân viên giúp việc khác.
Các Hội đồng thông thường họp mỗi tháng một lần và đưa ra quyết định đối với các vấn đề cần thiết trên cơ sở đảm bảo lợi ích chung cho cộng đồng dân cư của mình, những cam kết với các hội đồng tiền nhiệm, đảm bảo đáp ứng yêu cầu của chính phủ và các lập trường chính trị mà họ đã tuyên bố khi tranh cử.
Cũng giống như chính quyền trung ương, chính quyền địa phương hoạt động theo các nguyên tắc do Nghị viện đề ra và các nguyện vọng của cử tri cũng chính là nhiệm vụ đối với người trúng cử.
Khu vực chính quyền địa phương của New Zealand gồm: 11 hội đồng vùng; 61 cơ quan quản lý lãnh thổ – trong đó có 11 hội đồng thành phố và 50 hội đồng quận; và 6 hội đồng thống nhất – đây là các cơ quan quản lý lãnh thổ đảm nhiệm chức trách của hội đồng vùng.
78 hội đồng gồm khoảng 1600 thành viên được bầu vào hội đồng. Các vị trí thành viên chủ chốt được bầu bao gồm: Thị trưởng, Chủ tịch ủy ban vùng, thành viên trong các ban ở địa phương và ở cụm dân cư.
Điều luật Chính quyền địa phương quy định chức năng và nhiệm vụ của chính quyền địa phương như sau: Chính quyền địa phương được chia thành ba hạng (i) cấp vùng; (ii) cấp lãnh thổ; và (iii) cơ quan quản lý theo mục đích đặc biệt.
Các nhà chức trách địa phương có nhiệm kỳ 3 năm. Theo quy định họ phải công khai và xin ý kiến công chúng trước các quyết định quan trọng.
2.2. Vai trò, vị trí, chức năng của Ủy ban Công vụ Nhà nước SSC
Ủy ban Công vụ Nhà nước (Te Komihana O Ngā Tari Kāwanatanga), trước đây có tên là Ủy ban Công vụ, là một cơ quan trực thuộc chính phủ trung ương New Zealand.
Chức năng chính của Ủy ban Công vụ Nhà nước nhìn chung là nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan thuộc khu vực công của New Zealand. Các chức năng cụ thể của Ủy ban theo quy định trong Luật Khối Nhà nước (State Sector Act) 1988 bao gồm: Bổ nhiệm và đánh giá hoạt động của các Tổng quản trị viên (chief executives) trong các bộ của nền công vụ; xúc tiến và phát triển vai trò lãnh đạo và năng lực quản lý cấp cao trong nền Công vụ; Tham mưu về đào tạo, tập huấn cho công chức trong nền Công vụ; Đánh giá hoạt động của các bộ ngành; Tham mưu phân định chức năng và điều phối chức năng giữa các bộ ngành trung ương và các cơ quan khác; Tham mưu quản trị hệ thống, cơ cấu và tổ chức trong nền Công vụ và các cơ quan của Hoàng gia; Xúc tiến, xây dựng và giám sát tính công bằng trong các chính sách và chương trình tuyển dụng; Thực hiện các chức năng điều hành và quản lý khác đối với nền Công vụ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Tóm lại, tuyên ngôn hoạt động của Ủy ban này là "bảo đảm sự lãnh đạo hiệu quả trong các cơ quan của nền công vụ nhà nước để Chính phủ phục vụ người dân New Zealand tốt hơn".
Ủy ban Công vụ là cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức của New Zealand. Ủy ban Công vụ Nhà nước hoạt động trên cơ sở mối quan hệ ba bên bao gồm: 1) Bộ trưởng; 2) Tổng Quản trị viên (Chief Executives - CEs) - người đứng sau Bộ trưởng, điều hành chung công việc của bộ ngành hoặc cơ quan ngang bộ và 3) Chủ tịch Ủy ban Công vụ (đánh giá kết quả hoạt động và có quyền luân chuyển, sa thải Tổng Quản trị viên của tất cả các Bộ). Hiệu quả hoạt động và sự phát triển của Bộ phụ thuộc vào mối quan hệ giữa Bộ trưởng và Tổng Quản trị viên. Ủy ban Công vụ nhà nước là cơ quan điều phối mối quan hệ này.
Chủ tịch Ủy ban Công vụ là người điều hành Ủy ban Công vụ Nhà nước. Vai trò của Chủ tịch Ủy ban Công vụ là lãnh đạo và giám sát việc thực thi công vụ. Chủ tịch Ủy ban công vụ chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Nội vụ (Department of Internal Affairs) về năng lực và hiệu quả hoạt động của Ủy ban. Chủ tịch Ủy ban Công vụ chỉ định và ký hợp đồng làm việc với Tổng Quản trị viên và đánh giá hiệu quả hoạt động của Tổng Quản trị viên thay mặt Bộ trưởng. Chủ tịch Ủy ban công vụ và Phó chủ tịch Ủy ban công vụ do Toàn quyền bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng chính phủ.
Một trong các chức năng chính của UBCV là quản lý Các Tổng quản trị viên ở tất cả các bộ ngành. Tổng quan chu trình quản lý các công chức cao cấp nhất trong các bộ (Tổng quản trị viên) như sau: Đây là một chu trình gồm 5 bước chính. Khi có nhu cầu tuyển dụng Tổng quản trị viên, UBCV sẽ tiến hành bước 1 là đăng thông báo tuyển dụng, nêu công khai chi tiết về yêu cầu năng lực đối với vị trí này trên các phương tiện thông tin truyền thông. Các yêu cầu năng lực này là sản phẩm qua các cuộc đàm phán giữa chủ tịch UBCV và Bộ trưởng của các bộ có nhu cầu tuyển dụng. Sau đó thành lập Ban tuyển dụng gồm từ 5-6 người, thành phần gồm 01 bộ trưởng, 01 đại diện đảng phái, chủ tịch UBCV, 01 Tổng quản trị viên ở bộ khác, 01 chuyên gia am hiểu ngành nghề, 01 đại diện từ khu vực tư nhân (doanh nghiệp thuộc ngành) có liên quan. Ban tuyển dụng chọn lựa được 1 ứng viên và tư vấn cho chủ tịch UB báo cáo lên Nội các để phê chuẩn kết quả tuyển dụng. Sau đó ứng viên đó ký hợp đồng làm việc, lần 1: 5 năm, lần 2: 3 năm vào làm việc tại bộ đăng tuyển. Bước 2: UBCV phối hợp với bộ tuyển dụng bồi dưỡng nhận thức về các tiêu huẩn, nhiệm vụ, các mối quan hệ trong công việc cần thiết cho Tổng quản trị viên mới vào làm việc. Bước 3: Sau một năm làm việc, UBCV đánh giá năng lực công vụ và kết quả làm việc của Tổng quản trị viên mới tuyển. Bước 4: UBCV tổng hợp, rà soát chuẩn bị đánh giá thường niên lấy ý kiến từ nhiều nguồn (bản tự kiểm điểm của Tổng quản trị viên, ý kiến của người dân, lấy ý kiến của các bộ trưởng khác). Bước 5: UBCV họp với Tổng quản trị viên rà soát hoạt động năm và trao đổi các đề xuất, kiến nghị. Bước 6: Khen thưởng. Mức thưởng cho vị trí này tối đa là 15% mức lương hiện hưởng (15% thưởng + 85% lương).
2.3. Vai trò, chức năng và những đóng góp của Trường Quản lý thuộc Đại học Victoria của Wellington đối với nền công vụ New Zealand
Trường được thành lập năm 1899, và là trường Quản lý duy nhất ở New Zealand đào tạo về kỹ năng quản lý cho khối Nhà nước và Khối tư nhân.
Trường Quản lý SOG là trường quản lý duy nhất của New Zealand, đáp ứng nhu cầu đào tạo về quản lý trên toàn quốc. Trường cung cấp các khóa đào tạo đa dạng từ đại học, thạc sỹ, tiến sỹ đến các chương trình bồi dưỡng cho công chức và công chức cấp cao trong nền hành chính, quản lý, giám đốc, tổng giám đốc trong các công ty, doanh nghiệp khối tư nhân. Về đội ngũ nghiên cứu, trường có đội ngũ nghiên cứu gồm các chuyên gia cao cấp và các chuyên gia khách mời từ Ủy ban Công vụ Nhà nước, Hội đồng các cấp và các nghị sỹ trong Nghị viện các chuyên gia trong các ủy ban của Nghị viện. Các khóa học được thiết kế theo yêu cầu và linh hoạt đáp ứng các trường hợp cá biệt của nhóm đối tượng học.
3. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT HỢP TÁC
Qua nghiên cứu, tìm hiểu về chế độ công chức, công vụ của New Zealand có thể rút ra một số điều cần lưu ý và các đề xuất hợp tác như sau:
- Công tác tuyển dụng và lộ trình thăng tiến: Theo Luật Khu vực Nhà nước, tất cả lãnh đạo đứng đầu các cục, các bộ ngành trong chính phủ đều ký hợp đồng làm việc có thời hạn theo nhiệm kỳ (term contracts). Đứng dưới mỗi bộ trưởng là một Tổng Quản trị viên (Chief Executives - CEs) điều hành chung công việc của bộ ngành hoặc cơ quan ngang bộ. Tổng Quản trị viên trong Bộ hiện nay đã được trao nhiều quyền hành quan trọng hơn và có quyền tự chủ nhiều hơn trước đây. Tổng Quản trị viên có quyền tự định đoạt việc tuyển những ai vào làm trong bộ hoặc cơ quan ngang bộ, trả lương bao nhiêu trong khoảng lương quy định, thuê trụ sở tại đâu và chi tiêu trong cơ quan như thế nào. Về nhân sự cấp dưới mình, Tổng Quản trị viên có toàn quyền tuyển dụng, trả lương, quyết định đề bạt thăng tiến và sa thải toàn bộ nhân viên của mình. Tổng Quản trị viên là một vị trí không mang tính chất chính trị và do Ủy ban Công vụ nhà nước tuyển chọn và đề xuất bổ nhiệm.
- Hình thức thi tuyển công chức của New Zealand: Hiện tại New Zealand áp dụng hình thức thi tuyển cạnh tranh. Quy trình tuyển dụng gồm các bước chính như sau (NZ Ministry of Education, 2014): (i) Tuyển chọn và đưa vào danh sách ngắn (qua thông báo đăng tuyển trên phương tiện đại chúng), (ii) Phỏng vấn và đánh giá thông qua kỹ năng xử lý tình huống, (iii) Liên lạc với các bên liên quan để xác minh thông tin, (iv) Bổ nhiệm, (v) Kiểm tra trước khi chính thức bắt đầu làm việc (kiểm định bằng cấp và chứng thực lý lịch tư pháp)
- Đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ hàng năm đối với công chức cấp cao: Công chức cấp cao trong các bộ ngành hàng năm đều phải thực hiện tự kiểm điểm và chịu sự đánh giá khách quan của nhiều bên. Đối với vị trí Tổng Quản trị viên trong các bộ và cơ quan ngang bộ, ngoài bộ trưởng trực tiếp đánh giá, các công chức trong các ngành khác tham gia phối hợp công tác trong năm, người dân và Ủy ban Công vụ sẽ thực hiện đánh giá chung và báo cáo lên bộ trưởng trực tiếp. Nếu kết quả làm việc không tốt như mong đợi, Tổng Quản trị viên đó sẽ phải tham gia khóa bồi dưỡng hoặc bị thuyên chuyển công tác hoặc bãi nhiệm trở thành công chức bình thường.
- Tiền lương – tiền công: Cấu trúc lương linh hoạt dành cho công chức cấp cao.
TỔNG LƯƠNG = 85% lương cố định + 15% lương hưởng theo hiệu quả công việc. Cơ cấu lương này hiện đang được điều chỉnh theo hướng giảm tỷ trọng lương cố định xuống 75% và tăng tỷ trọng lương hưởng theo hiệu quả công việc lên 25%. Hệ thống lương trả lương theo hình thức trả trọn gói theo kết quả thực thi công vụ và được tính toán tổng hợp tự động dựa trên bản tự kiểm điểm và đánh giá của nhiều bên về mức độ, chất lượng, thái độ thực thi công vụ qua hệ thống mạng nội bộ.
- Đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức quốc gia: Công tác đào tạo cho đội ngũ công chức, đặc biệt là công chức cấp cao sẽ tạo ra động lực tăng cường chất lượng đội ngũ và hiệu quả công việc. New Zealand chú trọng hình thức “bồi dưỡng tại chỗ”, lý thuyết đi đôi với thực hành. Ngoài hình thức học qua công việc, chính phủ ký hợp đồng với đơn vị đào tạo (Trường đại học) để tổ chức các khóa bồi dưỡng ngắn hạn; hoặc sử dụng hình thức bồi dưỡng thông qua làm việc với chuyên gia. Trường Quản lý (SOG) là đơn vị đào tạo đầu mối tạo ra mạng lưới đào tạo, nghiên cứu hợp tác đa bên về các lĩnh vực chính sách công, quản lý công và hành chính công.
- Chính sách thu hút và sử dụng nhân tài: Trước sức ép nhiều mặt từ những biến động kinh tế – xã hội, nhu cầu hài hòa hóa lợi ích các đảng phái chính trị, khó khăn về tài chính công nói chung, nền công vụ cần những người tài để tăng hiệu quả xử lý công việc và đưa ra nhiều sáng kiến phối hợp đa bên, nền công vụ New Zealand có một số quy định để thu hút người tài như sau: Xác định đúng vị trí việc làm phù hợp với năng lực của công chức. Công chức đang công tác ở bộ ngành mà chứng minh được năng lực của mình ở một bộ ngành khác thì được phép chuyển sang bộ ngành phù hợp với năng lực; Tuyển chọn nhân tài từ các trường đại học; Tuyển chọn nhân tài từ khu vực tư nhân; Thực hiện chế độ tổng lương gồm lương cố định + lương theo hiệu quả công việc./.
VIỆN KHOA HỌC TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC