🚀 Premium⚡️

Cải cách về thuế

{getToc} $title={Xem nhanh}

 Thu đúng, thu đủ, dễ thu, dễ kiểm tra, dễ giám sát sẽ góp phần đánh giá đúng tiềm lực kinh tế, vị thế của đất nước, tránh được tiêu cực và thất thu ngân sách.

Đã đến lúc, chúng ta cần đánh giá lại các quy định về thuế và có một cuộc cải cách về thuế là điều tất yếu và theo Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường – Đại biểu Quốc hội khóa 15, Ủy viên Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội, chúng ta có nhiều việc phải làm để thực hiện cuộc cải cách này.

Từ cuộc trao đổi với GS. TS Hoàng Văn Cường, Báo điện tử Chính phủ xin giới thiệu loạt bài viết, cung cấp một góc nhìn về thực trạng hệ thống thuế - bộ khung xương sống cho nền kinh tế cũng như góp ý các giải pháp nhằm cải thiện hệ thống này ngày càng tốt hơn, với thiết kế hợp lý, vận hành trơn tru hơn, trong bối cảnh thể chế được Đảng, Nhà nước xác định là "điểm nghẽn của điểm nghẽn" và cũng là "đột phá của đột phá". 

Bài 1: Giải mã hệ thống thuế: Tháo điểm nghẽn, nuôi dưỡng động lực phát triển

GS. TS Hoàng Văn Cường bắt đầu vấn đề từ thuế giá trị gia tăng (VAT), loại thuế phổ biến, hầu hết các hàng hoá dịch vụ trên thị trường đều phải chịu loại thuế này và nhìn VAT từ bức tranh toàn cầu. Ông nhắc đến Mỹ – nơi không áp dụng thuế VAT mà thay vào đó là thuế bán hàng (sales tax) áp dụng theo từng bang. Mô hình này đơn giản đến mức "bán hàng bao nhiêu, thu thuế bấy nhiêu, nộp luôn – không cần chứng minh đầu vào, đầu ra".

So sánh tiếp, Canada và Australia triển khai mô hình GST (Goods and Services Tax) – một biến thể của VAT nhưng với cách vận hành nhẹ nhàng hơn, tránh việc gây tắc nghẽn dòng tiền doanh nghiệp. Trong khi đó, Singapore và Hong Kong (Trung Quốc) duy trì mức thuế tiêu dùng cực thấp, chủ động dùng thuế như công cụ kích cầu và cạnh tranh đầu tư.

"Bản chất các sắc thuế này đều đánh vào người tiêu dùng cuối cùng – không khác gì VAT. Nhưng cách thức vận hành mới là điều quyết định tạo ra sự dễ chịu hay ngột ngạt cho nền kinh tế", GS. Hoàng Văn Cường chỉ rõ.

Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi, nhưng không phải để sao chép, mà để chọn lọc, thích ứng. Chúng ta cần đặt ra câu hỏi: tại sao cùng là thuế tiêu dùng, nhưng nơi thì gọn nhẹ, nơi thì thành nỗi ám ảnh với doanh nghiệp? Câu trả lời nằm ở một từ khóa: "vận hành".

Thuế VAT – ưu việt trên lý thuyết, bất cập khi vận hành

VAT từ lâu được xem là một trong những sắc thuế văn minh và tiến bộ nhất. Hiện có khoảng 160 quốc gia trên thế giới áp dụng thuế này, coi đó như xương sống của nguồn thu ngân sách. Ưu điểm nổi trội của VAT nằm ở chỗ nó chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm ở mỗi khâu sản xuất, lưu thông. Cuối cùng, người tiêu dùng cuối mới là đối tượng chịu thuế, còn các doanh nghiệp ở khâu trung gian chỉ thực hiện vai trò "thu hộ" và được hoàn lại phần thuế đầu vào đã nộp. Nhờ cơ chế khấu trừ – hoàn thuế này, VAT tránh được việc đánh thuế trùng lặp lên cùng một cơ sở hàng hóa, qua đó tạo ra sự công bằng tương đối giữa các loại hình kinh doanh.

Thế nhưng, chính điểm ưu việt đó lại dẫn đến những thách thức không nhỏ trong thực tiễn. Để vận hành đúng nguyên lý của VAT, mỗi doanh nghiệp tham gia chuỗi sản xuất – phân phối buộc phải chứng minh minh bạch số thuế VAT đã nộp ở đầu vào và số VAT đã thu ở đầu ra, từ đó xác định phần chênh lệch phải nộp lại cho Nhà nước. Quy trình này tạo ra một khối lượng công việc giấy tờ và thủ tục không hề nhỏ, khiến hệ thống VAT trở nên phức tạp và khó vận hành. Sự phức tạp đó vô hình trung mở ra kẽ hở cho những hành vi gian lận, trục lợi gây lãng phí và thất thoát. Thực tế những năm gần đây đã xảy ra không ít vụ gian lận hoàn thuế VAT chấn động, khi một số doanh nghiệp cấu kết tạo giao dịch khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế.

Trước hiện tượng thất thoát này, cơ quan thuế buộc phải thắt chặt quy trình hoàn thuế, tăng cường hậu kiểm. Tuy nhiên, các biện pháp siết chặt tuy ngăn chặn được kẻ gian lận lại vô tình đẩy những doanh nghiệp làm ăn chân chính rơi vào thế khó. Nhiều doanh nghiệp đã nộp thuế đầu vào thật nhưng lại chật vật đòi hoàn thuế, bị "giam" một khoản tiền lớn trong thời gian dài. Hệ quả là không ít doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất vốn lưu động, tiền đáng lẽ dành cho sản xuất kinh doanh thì bị tồn đọng tại cơ quan thuế. Rõ ràng, đây là những mặt trái của chính sách VAT hiện hành – một bài học đắt giá về khoảng cách giữa ý tưởng chính sách tốt và thực thi kém hiệu quả.

Nhìn nhận những bất cập này, GS. Hoàng Văn Cường thẳng thắn cho rằng lỗi không nằm ở bản chất sắc thuế, mà nằm ở cách thức chúng ta vận hành nó. VAT suy cho cùng vẫn là một sắc thuế tiên tiến; vấn đề là chúng ta đã làm nó biến dạng qua những khâu thực thi rườm rà. Vì lo sợ và để phòng chống gian lận, cơ quan quản lý đặt ra quá nhiều quy định ngặt nghèo và chính điều đó lại gây khó cho doanh nghiệp tuân thủ. Ông chỉ ra tình trạng phi lý: có doanh nghiệp phải nộp thuế đầu vào, nhưng sản phẩm đầu ra lại không thuộc diện chịu VAT, dẫn đến không có cách nào đòi hoàn thuế. Những nghịch lý này xuất phát từ hạn chế trong chính sách chứ không phải do thuế VAT "có lỗi". Do vậy, để phát huy ưu điểm của VAT và khắc phục nhược điểm, Việt Nam cần thay đổi căn bản tư duy và cơ chế vận hành sắc thuế này.

Thuế chồng thuế: Lực cản âm thầm trên hành trình hội nhập và tăng trưởng

Nhìn rộng hơn, GS Hoàng Văn Cường thống nhất với nhiều ý kiến đều cho rằng, hệ thống thuế của Việt Nam những năm qua đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, cơ bản, phát huy vai trò tích cực của chính sách tài khóa, nuôi dưỡng nguồn thu, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp, người dân, thúc đẩy phục hồi phát triển kinh tế - xã hội.

Riêng năm 2024, kết quả thu thực hiện cả năm cao nhất từ trước đến nay, đạt trên 2 triệu tỷ đồng, tăng 19,1% so dự toán; tỷ lệ động viên đạt 17,8% GDP, riêng thuế, phí đạt 14,2% GDP, trong khi đã thực hiện miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất khoảng gần 200 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, hệ thống thuế vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Trong đó, một trong những bất cập lớn nhất của hệ thống thuế Việt Nam hiện nay là tình trạng thuế chồng thuế – khi một mặt hàng hoặc hành vi tiêu dùng bị điều tiết đồng thời bởi nhiều sắc thuế có chức năng tương tự.

Ví dụ như, xe ô tô nhập khẩu hiện không chỉ chịu thuế nhập khẩu, mà còn phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Sau đó, doanh nghiệp tiếp tục nộp thuế VAT, tính trên cả phần thuế tiêu thụ đặc biệt ấy. Điều này khiến giá trị chịu thuế bị đẩy cao lặp lại, gây cảm giác bất hợp lý cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Một trường hợp tương tự là xăng dầu – cùng lúc chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường. Cả hai sắc thuế này đều nhằm điều chỉnh hành vi tiêu dùng có hại, nhưng khi áp đồng thời mà không phân định rõ vai trò, chính sách sẽ trở nên thiếu minh bạch, làm mờ mục tiêu điều tiết thực chất.

"Cùng một hành vi nhưng bị nhiều sắc thuế điều tiết sẽ tạo ra cảm giác bất hợp lý, triệt tiêu cả mục tiêu quản lý lẫn động lực thị trường", GS. Cường bình luận.

Cấu trúc VAT đánh trên cả phần thuế tiêu thụ đặc biệt, hay thuế bảo vệ môi trường không gắn với đánh giá tác động cụ thể, bị xem là chưa phù hợp với chuẩn mực thương mại công bằng.

Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng tham gia sâu vào các FTA thế hệ mới như EVFTA, CPTPP, việc xây dựng một hệ thống thuế rõ ràng về chức năng, minh bạch về mục tiêu không chỉ cần thiết cho doanh nghiệp trong nước, mà còn là điều kiện để khẳng định vị thế quốc gia trong hội nhập toàn cầu. 

Gánh nặng tuân thủ: Bức tường vô hình của doanh nghiệp nhỏ

Một điểm nghẽn dai dẳng khác là chi phí tuân thủ thuế – yếu tố tưởng nhỏ nhưng lại có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hay nói cách khác, nó là một trong những nguyên nhân quan trọng để các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ "không chịu lớn".

Trên lý thuyết, chính sách thuế được áp dụng thống nhất cho mọi doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế, chi phí tuân thủ lại tỷ lệ nghịch với quy mô: càng nhỏ, gánh nặng càng lớn – nếu tính theo tỷ lệ doanh thu hoặc lợi nhuận.

"Một doanh nghiệp lớn có thể thuê nguyên bộ phận kế toán để làm thuế. Nhưng một doanh nghiệp nhỏ, doanh thu vài trăm triệu, cũng phải thuê người kê khai như vậy – chi phí đó chiếm tỷ trọng cực lớn trong tổng doanh thu", GS. Cường chỉ rõ thực tế.

Chính sự bất cân xứng này là một trong những bức tường vô hình ngăn hộ kinh doanh cá thể chuyển lên doanh nghiệp. Họ không ngại nộp thuế nhưng ngại thủ tục rườm rà, chi phí phát sinh, và rủi ro xử phạt hành chính.

Nếu hệ thống thuế không được đơn giản hóa, "vùng xám" ấy sẽ tiếp tục tồn tại – không vì trốn tránh nghĩa vụ, mà vì sợ không đủ khả năng tuân thủ đúng luật. Khi đó, chúng ta đánh mất cơ hội đưa các nguồn lực phi chính thức trở thành lực lượng sản xuất hợp pháp, minh bạch, bền vững.

"Khi chi phí tuân thủ thấp, doanh nghiệp sẽ không có động cơ lẩn tránh. Ngược lại, họ sẽ chủ động tham gia hệ thống để được bảo vệ và phát triển," GS. Cường khẳng định.

Trên cơ sở đó, Giáo sư Hoàng Văn Cường nhất trí rất cao với quan điểm chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính khi dự hội nghị tổng kết công tác tài chính-ngân sách năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025. Theo đó, ngành tài chính cần có tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, dám nghĩ dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám chịu trách nhiệm, dám vượt qua giới hạn của bản thân; kiên quyết xóa bỏ cơ chế xin cho, thủ tục hành chính rườm rà, giảm phiền hà, sách nhiễu cho người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, Thủ tướng yêu cầu quyết liệt thực hiện cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính, ngân sách, dứt khoát số hóa việc thu chi ngân sách, triển khai hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền nhằm chống thất thu thuế…

Vị chuyên gia kinh tế cũng đánh giá rất cao phát biểu của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho rằng, đến nay đã rất chín muồi để thúc đẩy việc đổi mới căn bản công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật. Trong kỷ nguyên mới, pháp luật phải thật sự là nền tảng của phát triển, phục vụ phát triển và thúc đẩy phát triển; "lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể".

Công tác xây dựng pháp luật phải áp dụng cách tiếp cận thực tế và thực tiễn; bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, giải đáp các vướng mắc của cuộc sống và tìm ra con đường phát triển từ thực tiễn; đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, bắt kịp xu thế thời đại.

Từ các phân tích đã nêu (ở Bài 1) về các bất cập, điểm nghẽn của hệ thống thuế, gánh nặng "thuế chồng thuế", chi phí tuân thủ lớn…, Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường – nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại biểu Quốc hội khóa 15, Ủy viên Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội cho rằng, đã đến lúc cần một cuộc cải cách thuế toàn diện, bắt đầu không phải từ những con số, mà từ tư duy. Vậy chúng ta cần phải làm gì?

Cần cuộc "đại phẫu" cả phần cứng và phần mềm

Đâu là hình hài một hệ thống thuế lý tưởng? GS Hoàng Văn Cường đề xuất một mô hình 3 lớp – với nguyên tắc cốt lõi là rạch ròi, đơn giản, dễ thực hiện, dễ kiểm tra giám sát, minh bạch và phù hợp với thực tiễn, bao gồm phân định, đơn giản và số hóa.

Một là, thuế điều tiết hành vi phải tách bạch khỏi thuế nghĩa vụ. Cần phân định rõ sắc thuế nào để hạn chế hành vi (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế môi trường), sắc thuế nào để đảm bảo nghĩa vụ công dân (thuế VAT, thuế thu nhập). Mỗi sắc thuế cần xác định rõ mục tiêu và phạm vi áp dụng, tránh chồng lấn điều tiết lên cùng một đối tượng.

Hai là, cơ chế thu linh hoạt – nhiều phương án, một mục tiêu. Một sắc thuế có thể có nhiều cách tính để phù hợp với các nhóm doanh nghiệp khác nhau.

Ba là, số hóa triệt để – từ nghĩa vụ thành tiện ích. GS Cường nhấn mạnh rằng, nếu làm đúng, hệ thống công nghệ thuế sẽ không chỉ là công cụ quản lý, mà là công cụ giúp doanh nghiệp quản trị. Ông đưa ra ví dụ, tại Estonia, 95% số doanh nghiệp nhỏ có thể tự nộp thuế nhờ nền tảng số hóa toàn diện – tiết kiệm hàng triệu USD chi phí xã hội mỗi năm.

Nhìn chung, nếu coi thuế như "mạch máu" của nền kinh tế, thì ba trụ cột trên chính là những chức năng tuần hoàn thiết yếu, giúp hệ thống thuế thực sự trở thành động lực cho phát triển chứ không phải gánh nặng. Vấn đề đặt ra là: trong thực tiễn, hệ thống thuế của chúng ta đã đáp ứng được bao nhiêu phần trăm kỳ vọng đó?

GS. Hoàng Văn Cường chỉ ra rằng, để cải tổ hệ thống thuế, trước hết cần nhìn nhận lại cấu trúc và cách thức vận hành hiện tại. Ông nhấn mạnh hệ thống thuế được cấu thành bởi hai yếu tố chính: (1) các sắc thuế cùng cơ chế xác định chúng; (2) bộ máy quản lý và thực thi các sắc thuế đó.

Cuộc "đại phẫu" phải tác động đồng thời đến cả "phần cứng" (chính sách, sắc thuế) lẫn "phần mềm" (cách thức vận hành). Từ góc nhìn đó, ông phác thảo nên những nguyên tắc cốt lõi, những trụ cột mà một hệ thống thuế hiện đại cần phải đáp ứng.

Theo GS. Cường, một hệ thống thuế hiệu quả phải đảm bảo được ba chức năng cơ bản.

Thứ nhất, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách. Chức năng đầu tiên và quan trọng nhất của thuế là huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong xu thế chung trên thế giới, tỷ trọng thu ngân sách dựa vào thuế và phí ngày càng chiếm phần lớn, do đó hệ thống thuế cần được thiết kế để nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài thay vì tận thu nhất thời.

Thứ hai, bảm bảo công bằng và điều tiết kinh tế. Thuế phải là công cụ điều tiết vĩ mô, khuyến khích những hoạt động hiệu quả và chế tài những hoạt động kém hiệu quả. Doanh nghiệp hay người nộp thuế nếu làm ăn hiệu quả sẽ được hưởng lợi nhiều hơn, còn nếu hoạt động kém thì sẽ chịu sự điều chỉnh bất lợi từ chính sách thuế. Nhờ đó, thuế tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy các doanh nghiệp cải thiện để phát triển tốt hơn.

Thứ ba, hội nhập thông lệ quốc tế. Hệ thống thuế hiện đại phải tương thích với các chuẩn mực quốc tế, tránh biến thuế thành rào cản thương mại trong bối cảnh toàn cầu hóa. Việc hài hòa thuế quan với thông lệ chung sẽ giúp Việt Nam thu hút đầu tư và giao thương thuận lợi hơn. Tuy nhiên, chúng ta cần vận dụng những thông lệ đó một cách phù hợp và sáng tạo với điều kiện của Việt Nam – hệ thống thuế phải linh hoạt theo trình độ phát triển và mục tiêu từng giai đoạn, thay vì rập khuôn máy móc.

Bắt đầu từ thay đổi tư duy: Đơn giản hóa, chuyển đổi số hệ thống thuế

Làm thế nào để một cuộc cải cách thuế thực sự bắt đầu từ thay đổi tư duy? Từ trường hợp thuế VAT, GS. Hoàng Văn Cường cho rằng, cần đơn giản hóa các quy định về hóa đơn, chứng từ đầu vào – tức là cải cách quy trình khấu trừ và hoàn thuế, cắt giảm những thủ tục không cần thiết. Song song đó, phải nâng cao trách nhiệm của người nộp thuế: doanh nghiệp tự khai tự chịu, nếu gian dối sẽ bị xử lý nghiêm, nhưng cơ quan thuế cũng cần tin tưởng hơn vào sự tự giác của người dân và doanh nghiệp.

Quan trọng không kém và là xu hướng tất yếu, là đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý thuế. Một hệ thống công nghệ thông tin hiện đại sẽ cho phép mọi giao dịch liên quan đến thuế được ghi nhận tức thời.

Ví dụ, mỗi khoản VAT mà doanh nghiệp nộp ở đầu vào sẽ lập tức được hệ thống ghi nhận là khoản chi (thay người tiêu dùng) của doanh nghiệp đó và khi doanh nghiệp bán hàng, khoản VAT họ thu của khách sẽ đồng thời được ghi nhận là khoản thu. Việc đối soát thu – chi thuế sẽ được thực hiện một cách tự động, thay vì phải chờ doanh nghiệp nộp hồ sơ rồi cán bộ thuế duyệt hoàn như hiện nay.

Công nghệ số sẽ giúp loại bỏ hoàn toàn nhu cầu doanh nghiệp phải "xin hoàn thuế", qua đó chấm dứt tình trạng vừa thất thoát thuế, vừa làm khó người nộp thuế. GS.TS Hoàng Văn Cường nhấn mạnh đây là "một việc làm tất yếu" để hệ thống thuế không còn gây ra "những phiền toái như hiện nay".

Có thể thấy, tư duy vận hành chính là chìa khóa của cuộc cải cách hệ thống thuế. Từ câu chuyện VAT, thông điệp rút ra là: khi nhà quản lý thay đổi cách nghĩ, cách làm, lấy sự đơn giản, minh bạch và công bằng làm trọng, thì "mạch máu" thuế sẽ lưu thông khỏe khoắn, nuôi dưỡng toàn bộ nền kinh tế.

Cuộc cách mạng về thuế phải bắt đầu từ cuộc cách mạng trong tư duy – có như vậy, chúng ta mới thực sự có một hệ thống thuế hiện đại, công bằng và hội nhập, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh quốc gia trong giai đoạn mới.

Một hệ thống thuế lý tưởng không chỉ nuôi ngân sách, mà còn cần phát huy vai trò điều tiết và khuyến khích, điều chỉnh hành vi, phân phối lại lợi ích, và khơi dậy động lực sáng tạo – đầu tư – sản xuất. Muốn vậy, cần tái cấu trúc toàn diện hệ thống thuế – từ tư duy đến vận hành – theo hướng công bằng, linh hoạt và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

Mỗi chính sách thuế cần trả lời rõ: nó khuyến khích điều gì, cản trở điều gì? Nếu được thiết kế minh bạch, hợp lý và dễ tuân thủ, người dân và doanh nghiệp sẽ sẵn sàng nộp thuế và thuế sẽ trở thành đòn bẩy phát triển."Người dân chỉ sẵn sàng nộp thuế khi thấy công bằng, minh bạch. Doanh nghiệp chỉ phát triển khi hệ thống thuế không khiến họ nghẹt thở," GS. Cường nhấn mạnh.

Cải cách thuế không phải để thu ít hay thu nhiều hơn, mà là để thu đúng – thu đủ – thu thuận lợi. Khi đó, thuế không chỉ là công cụ tài khóa, mà thực sự là nền móng cho một quốc gia phát triển bền vững.

Một hệ thống thuế lỗi thời, phức tạp và thiếu minh bạch không chỉ cản trở doanh nghiệp mà còn làm suy yếu toàn bộ nền kinh tế. Ngược lại, một hệ thống thuế đơn giản, công bằng và linh hoạt có thể trở thành đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng, khơi thông nguồn lực và nuôi dưỡng động lực đổi mới.

Tại Việt Nam, hệ thống thuế hiện hành đã góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển đất nước trong suốt nhiều thập niên qua. Tuy nhiên, những thay đổi nhanh chóng của môi trường quốc tế và yêu cầu phát triển trong nước đang đặt ra một nhu cầu cấp thiết: Phải cải cách hệ thống thuế không chỉ về kỹ thuật, mà trước hết là về tư duy.

Gần đây nhất, ngày 18/4, tại phiên họp Chính phủ chuyên đề pháp luật, khi cho ý kiến về dự án Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có những ý kiến chỉ đạo rất chiến lược. Đó là cần rà soát, thiết kế chính sách mang tính đổi mới mạnh mẽ, cách mạng, đột phá hơn nữa trong lĩnh vực này. Thủ tướng cũng đã nhiều lần nhấn mạnh yêu cầu số hóa hoạt động thu chi ngân sách, đặc biệt là áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền.

Chúng ta không thể bước vào nền kinh tế số, không thể khơi dậy sức mạnh của khu vực tư nhân, càng không thể minh bạch hóa toàn bộ nền kinh tế nếu tiếp tục duy trì một hệ thống thuế nặng tính hành chính, cứng nhắc và thiếu phản ứng chính sách linh hoạt. Thuế khoán cho hàng triệu hộ kinh doanh cá thể, thủ tục hoàn thuế rườm rà, nguy cơ gian lận thương mại – tất cả đang là những điểm nghẽn thể chế rõ nét.

Những điểm nghẽn trong hệ thống thuế hiện nay

Thứ nhất, thuế khoán áp dụng cho hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể là một bất cập lớn. Về cơ bản, doanh thu thực tế thường cao hơn nhiều mức thuế khoán, dẫn đến nguy cơ thất thu ngân sách, đồng thời tạo ra cơ chế "thỏa thuận ngầm" giữa cán bộ thuế và người nộp thuế, làm nảy sinh tiêu cực, thất thu ngân sách và mất công bằng. Quan trọng hơn, hình thức khoán này khiến Chính phủ không thể nắm bắt chính xác quy mô nền kinh tế thực, từ đó suy yếu năng lực hoạch định chính sách vĩ mô.

Thứ hai, cơ chế thuế VAT hiện nay vừa phức tạp vừa rủi ro. Doanh nghiệp phải tuân thủ nhiều tầng nấc chứng từ, hóa đơn, hồ sơ đầu vào – đầu ra; trong khi thủ tục hoàn thuế kéo dài, dễ phát sinh tiêu cực, chiếm dụng vốn và làm méo mó môi trường kinh doanh, cũng như nguy cơ gian lận thương mại phi thuế quan.

Thứ ba, hệ thống thuế còn nặng tính hành chính, chưa vận hành dựa trên dữ liệu thời gian thực. Mức độ tích hợp công nghệ và kết nối dữ liệu còn thấp, chưa hình thành được một hệ sinh thái thuế số đúng nghĩa – nơi mọi giao dịch được ghi nhận, xử lý và phản ánh vào điều hành chính sách ngay tức thời.

Thứ tư, chính sách thuế chưa đủ linh hoạt trong ứng phó với môi trường quốc tế biến động. Trong khi một số nước sử dụng hoàn thuế ngay tại chỗ để thúc đẩy "xuất khẩu tại chỗ" và khuyến khích tiêu dùng quốc tế, nếu chúng ta không phản ứng nhanh, bị động trước các cú sốc thương mại và tài chính toàn cầu sẽ là một hạn chế và thiệt thòi lớn.

Thiết kế lại hệ thống thuế theo hướng thông minh – linh hoạt – đồng hành- minh bạch

Cải cách hệ thống thuế Việt Nam phải được nhìn nhận như một nỗ lực thiết kế lại thể chế – không chỉ sửa chữa kỹ thuật, mà là tái cấu trúc tư duy và công cụ điều phối phát triển.

Thứ nhất, thuế phải chuyển từ vai trò chủ yếu là thu ngân sách sang vai trò kiến tạo phát triển. Hệ thống thuế cần thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và đầu tư xanh. Thuế cũng cần phân hóa để điều tiết các hoạt động tiêu cực như đầu cơ bất động sản, gây ô nhiễm môi trường hoặc sử dụng tài nguyên không hiệu quả.

Thứ hai, cần phản ứng chính sách linh hoạt hơn nữa. Việc hoàn thuế ngay cho du khách, triển khai xuất khẩu tại chỗ hoặc linh hoạt theo vùng, theo lĩnh vực là những chính sách cần được Việt Nam nghiên cứu và nội luật hóa để nâng cao khả năng phản ứng chính sách vĩ mô.

Thứ ba, cần dừng lại cơ chế thuế khoán càng sớm càng tốt và bài toán thuế khoán nên được giải bằng công nghệ số thay vì tăng cường bộ máy hành chính. Cần thay hình thức khoán bằng mô hình "thuế tối giản" với tỷ lệ thu nhỏ (1–2%) tính trên doanh thu thực, được ghi nhận qua máy POS, ví điện tử hoặc QR code. Kết hợp với hạ tầng số hóa, Việt Nam có thể vừa đảm bảo công bằng, vừa giảm chi phí hành chính.

Thứ tư, cần thiết lập hệ sinh thái thuế thông minh, trong đó mọi quy trình từ kê khai, nộp, hoàn, kiểm tra thuế đều được tự động hóa và kết nối với các nền tảng dữ liệu quốc gia: ngân hàng, hải quan, dân cư, đất đai, thương mại điện tử. Khi đó, dữ liệu sẽ trở thành nền tảng để Nhà nước thiết kế chính sách linh hoạt, kịp thời và chính xác.

Thứ năm, quan hệ giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp phải chuyển hóa từ "quản lý" sang "đồng hành". Người nộp thuế cần được hỗ trợ, tư vấn và hướng dẫn rõ ràng, bên cạnh việc kiểm tra, xử phạt các hành vi vi phạm.

Bài học quốc tế về hệ thống thuế kiến tạo

Trong các quốc gia có năng lực cạnh tranh cao trên thế giới, một điểm chung nổi bật là họ đều sở hữu hệ thống thuế vừa đơn giản, minh bạch, vừa có khả năng điều tiết hiệu quả mà không cản trở động lực phát triển. Ở những nền kinh tế như Singapore, Estonia hay New Zealand… thuế không phải là một gánh nặng, mà là một thiết kế thể chế tinh gọn, đồng hành và nuôi dưỡng tăng trưởng.

Singapore là ví dụ điển hình cho mô hình thuế thân thiện với phát triển. Với thuế thu nhập doanh nghiệp giữ ở mức cố định 17%, thuế thu nhập cá nhân theo biểu lũy tiến hợp lý và mức thuế VAT tương đối thấp, quốc gia này đã xây dựng được một môi trường thuế vừa minh bạch, vừa dễ dự đoán – yếu tố cực kỳ quan trọng đối với đầu tư dài hạn. Thủ tục kê khai và nộp thuế được số hóa tối đa, thời gian xử lý ngắn, cơ chế hoàn thuế rõ ràng, ít rủi ro cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan thuế. Nhờ đó, Singapore không cần chạy theo các ưu đãi phức tạp, mà vẫn thu hút được các nhà đầu tư toàn cầu nhờ sự ổn định và minh định thể chế.

Estonia, trong khi đó, lại dẫn đầu thế giới về mô hình thuế gắn với chính phủ số. Tại đây, toàn bộ quy trình thuế – từ kê khai, nộp thuế đến giám sát và kiểm toán – đều được thực hiện trong vài phút thông qua nền tảng số quốc gia. Một điểm đột phá khác là chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp bằng 0 nếu lợi nhuận được tái đầu tư. Cách tiếp cận này không những khuyến khích tích lũy và mở rộng sản xuất, mà còn làm giảm đáng kể các hành vi lách thuế phức tạp, tạo ra mối quan hệ lành mạnh hơn giữa doanh nghiệp và Nhà nước.

New Zealand là trường hợp hiếm hoi trên thế giới xây dựng được một hệ thống thuế tối giản đến mức gần như không tạo ra chi phí tuân thủ. Không thuế tài sản quy mô lớn, không thuế thừa kế, không thuế thu nhập từ đầu tư cá nhân – chỉ còn lại một số ít sắc thuế chính như thuế tiêu dùng (GST), thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp. Dù đơn giản như vậy, nhưng nhờ cơ chế rõ ràng, nhất quán và minh bạch tuyệt đối, tỷ lệ tuân thủ thuế tại đây đạt mức rất cao mà không cần đến biện pháp cưỡng chế.

Từ các mô hình này, một thông điệp nổi bật có thể rút ra cho Việt Nam: càng minh bạch, càng số hóa, càng đơn giản, thì hệ thống thuế càng bền vững. Thuế, nếu được thiết kế như một cấu phần trong hạ tầng thể chế phát triển – thay vì chỉ là công cụ hành chính thu ngân sách – sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho một nền kinh tế sáng tạo, hiệu quả và tự cường.

Giải pháp thể chế cho Việt Nam

Một cuộc cải cách thuế thành công không thể chỉ dừng lại ở những điều chỉnh rải rác về kỹ thuật hay sửa đổi từng sắc thuế riêng lẻ. Điều Việt Nam cần lúc này là một chương trình cải cách có tính tổng thể và hệ thống, được dẫn dắt bởi một tư duy thể chế rõ ràng, với hành động đồng bộ trên tất cả các trụ cột: luật pháp, cơ cấu thuế, công nghệ, tổ chức bộ máy và chất lượng nguồn nhân lực.

Trước hết, hệ thống pháp luật về thuế cần được tái cấu trúc theo hướng tích hợp, minh bạch và dễ thực thi. Thay vì tồn tại rời rạc nhiều luật thuế riêng biệt như hiện nay, có thể xây dựng Bộ luật Thuế thống nhất, đóng vai trò là khuôn khổ pháp lý nền tảng cho toàn bộ hệ thống chính sách thuế quốc gia. Bộ luật này không chỉ phải rõ ràng về nội dung và quy trình, mà còn phải đặt con người – cả người nộp thuế và người thực thi – vào trung tâm thiết kế, đảm bảo khả năng thực hiện cao nhất trong thực tế.

Trên cơ sở đó, cần cơ cấu lại hệ thống các sắc thuế theo hướng hiện đại, phản ánh đúng bản chất nền kinh tế số và ưu tiên phát triển bền vững. Vai trò của thuế VAT cần được xem xét lại một cách nghiêm túc, từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào sắc thuế này để chuyển sang các hình thức thuế tiêu dùng thông minh, được ghi nhận qua dữ liệu số hóa. Đồng thời, Việt Nam cần phát triển những sắc thuế mới có tính điều tiết hiệu quả và bền vững hơn, như thuế số đối với nền kinh tế kỹ thuật số, thuế carbon để ứng phó biến đổi khí hậu, và thuế tài sản lũy tiến nhằm điều tiết sự tích tụ quá mức và đảm bảo công bằng xã hội.

Giải quyết tận gốc vấn đề thuế khoán cũng là một ưu tiên chiến lược. Thay vì duy trì hình thức khoán mang nặng tính cảm tính và dễ phát sinh tiêu cực, cần chuyển sang mô hình thu thuế dựa trên dữ liệu thực, với sự hỗ trợ của công nghệ số. Khi các giao dịch được ghi nhận tự động qua máy POS, ví điện tử, tài khoản ngân hàng hoặc QR hóa đơn, việc thu thuế sẽ trở nên chính xác, minh bạch và giảm thiểu tối đa chi phí hành chính. Đây không chỉ là bước đi kỹ thuật, mà là một cuộc cách mạng quản trị trong mối quan hệ giữa Nhà nước và người nộp thuế.

Tất cả những điều này chỉ có thể thực hiện được nếu Việt Nam đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trong ngành thuế. Cần xây dựng một hệ sinh thái dữ liệu thuế thống nhất và tích hợp, trong đó mọi thông tin từ dân cư, đất đai, doanh nghiệp, ngân hàng, thương mại điện tử và hải quan đều được kết nối, xử lý đồng thời bằng trí tuệ nhân tạo và phục vụ cho mục tiêu điều hành chính sách vĩ mô. Khi đó, Nhà nước không chỉ nắm được quy mô nền kinh tế thực mà còn có thể thiết kế chính sách tài khóa một cách linh hoạt, chính xác và kịp thời.

Để bảo đảm định hướng cải cách không bị đứt đoạn và có đủ sức mạnh thể chế, có thể thành lập một Ủy ban Cải cách Thuế Quốc gia, hoạt động chuyên sâu, với sự tham gia của các nhà hoạch định chính sách, giới chuyên gia, đại diện cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Ủy ban này cần có quyền nghiên cứu, đề xuất và giám sát cải cách thuế một cách xuyên suốt, trở thành trung tâm thúc đẩy cải cách trên tinh thần khách quan, khoa học và lắng nghe đa chiều.

Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, là cải cách đội ngũ cán bộ thuế – những người sẽ trực tiếp vận hành hệ thống thuế mới. Tư duy "kiểm tra – cưỡng chế" cần được thay thế bằng tư duy "tư vấn – đồng hành". Cán bộ thuế phải trở thành những chuyên gia về pháp luật, công nghệ và giao tiếp công vụ, để có thể hỗ trợ người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ một cách thuận lợi, minh bạch và đúng pháp luật.

Cải cách thuế, xét cho cùng, là cải cách lòng tin. Và lòng tin đó chỉ có thể được thiết lập nếu hệ thống thuế được xây dựng trên nền tảng của minh bạch, công bằng, hiện đại và phục vụ.

Thuế – nền tảng cho một quốc gia thông minh và phát triển

Thuế không còn là chuyện kỹ thuật của ngành tài chính, mà đã trở thành câu chuyện lớn của quốc gia. Một hệ thống thuế tốt sẽ không chỉ mang lại nguồn thu, mà còn tạo ra lòng tin, khơi dậy trách nhiệm công dân, thúc đẩy doanh nghiệp trưởng thành và Nhà nước trở nên thông minh hơn, có thêm nguồn lực cho phát triển và tăng tính cạnh quốc tế.

Trong bối cảnh quyết tâm cải cách, hoàn thiện thể chế đang đươc Đảng, Nhà nước đặt ra mạnh mẽ chưa từng có, với quan điểm thể chế là "đột phá của đột phá" nhưng cũng đang là "điểm nghẽn của điểm nghẽn", đồng thời phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trong nhất của tăng trưởng, cải cách thuế, nếu làm đúng và đủ, sẽ mở đường cho cải cách thể chế, cải cách hành chính và cải cách kinh tế. Thuế – nếu được thiết kế lại đúng cách – sẽ không còn là gánh nặng, mà sẽ trở thành nền móng cho một quốc gia thông minh, công bằng và hùng cường, thịnh vượng, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc trong thế kỷ 21.