Cải cách hành chính theo lý thuyết quản lý công mới ở Nhật Bản và một số nước ASEAN
1. Đặt vấn đề:
Vào những năm cuối của thế kỷ XX, cải cách hành chính trở thành một xu thế phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển. Ở các nước dân chủ phương Tây, chủ đề cải cách hành chính thịnh hành trong những năm 1980 là “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn”. Vào thập niên những năm 1990, tư tưởng làm động lực cho cải cách được thay đổi chút ít với khẩu hiệu “sáng tạo lại chính phủ” (Osborne và Gaebler). Không chỉ đánh mạnh vào chế độ quan liêu, các nhà lãnh đạo theo “chủ nghĩa tự do mới” (new liberal) đã ủng hộ việc cải cách chính phủ theo hướng “các công việc sẽ được thực hiện tốt hơn nhưng với chi phí thấp hơn”. Các nhà lãnh đạo trên thế giới đã chào đón một công cụ quản lý mới từ khu vực tư nhân nhằm làm cho Chính phủ có trách nhiệm hơn với kết quả hoạt động. Ở một vài nước như Vương Quốc Anh, Newzeland và Úc, các cải cách mang tính cấp tiến như tư nhân hoá, thử nghiệm thị trường, hợp đồng bên ngoài (contracting - out) trên cơ sở lý thuyết “lựa chọn công cộng” và “bán thị trường” (quasi - market) đã được triển khai. Kết quả là tất cả những nỗ lực đó được bao hàm dưới cái tên Quản lý công mới - “New Public Management”.
Ở các nước đang phát triển, cải cách hành chính đã trở thành vấn đề lớn và thách thức của các nhà lãnh đạo chính trị. Các lực lượng dân chủ đã chỉ trích sự chuyên chế của “Nhà nước đang phát triển”. Thêm nữa, các tổ chức trợ giúp quốc tế đã yêu cầu các nước đang phát triển hiện đại hoá việc quản trị đất nước nhằm sử dụng các hỗ trợ phát triển một cách hiệu quả. Một điều thú vị là các biện pháp đưa ra để thực hiện “Quản trị tốt” (Good Governance) lại bao hàm các tư tưởng của Quản lý công mới như “trách nhiệm” hoặc “phân quyền”. Những biện pháp này đã được Chính phủ thông qua và trở thành những cải cách rất khó khăn khi thực hiện, thậm chí là ở các nước phát triển. Có một điều rõ ràng là quản lý công mới ở một mức độ nào đó đã làm cho việc cải cách quản trị ở các nước phát triển và đang phát triển hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sẽ rất khó khăn, hoặc đôi khi trở nên vô nghĩa ở một số nước khi áp dụng những biện pháp của quản lý công mới mà không tính đến môi trường chính trị. Đối với các nước Châu Á - Thái Bình Dương, để quản lý công mới có thể thực hiện thành công hơn, các nước cần thúc đẩy việc trao đổi thông tin về quản lý công thông qua các kênh khác nhau.
2. Sự đa dạng lý thuyết của Quản lý công mới
Quản lý công mới không phải là việc xây dựng một lý thuyết mới mà dường như là một “món ăn” có pha trộn nhiều ý tưởng về cải cách Chính phủ. Có thể chia làm 2 dạng khác nhau:
- Cách tiếp cận thứ nhất là mong muốn thay đổi cơ cấu của Chính phủ từ mô hình tập trung, quan liêu thứ bậc hành chính thành các cơ quan nhỏ, gọn, được phân quyền nhiều hơn và thân thiện với khách hàng. Các biện pháp cải cách bao gồm: thử nghiệm thị trường, hợp đồng với bên ngoài, tách các cơ quan xây dựng chính sách với cơ quan thực thi chính sách, đánh giá các cơ quan thực thi chính sách từ phía khách hàng, người dân… Các biện pháp này dựa trên các lý thuyết của “trường phái kinh tế cổ điển mới” (neo classical economic) và “thể chế kinh tế mới” (new institutional economics). Các lý thuyết gia cho rằng mọi người có thể hạn chế sự lãng phí của bộ máy chính phủ bằng cách để các cơ quan này tham gia cạnh tranh với khu vực tư nhân, hoặc gần như tham gia vào thị trường.
- Cách tiếp cận thứ hai liên quan đến việc thay đổi tổ chức của khu vực công. Nó thử thách năng lực đối với lý thuyết hành chính công truyền thống theo mô hình Weber. Cách tiếp cận này xuất phát từ việc đổi mới quản lý doanh nghiệp từ những năm 1980. Rất nhiều cuốn sách bán chạy nhất đã tác động mạnh tới các nhà quản lý công, họ mong muốn áp dụng những thành công trong kinh doanh vào tổ chức của nhà nước. Hai tác phẩm nổi tiếng “Phá vỡ bộ máy quan liêu” của Barzelay (1992) và “ Sáng tạo lại Chính phủ” của Osborne và Gaebler (1992) là những cuốn sách có ảnh hưởng lớn nhất tới các nhà quản lý hành chính ở trung ương cũng như địa phương tại Hoa Kỳ. Các biện pháp cải cách bao gồm quản lý chất lượng tổng thể (Total Quality Management), chia tách tổ chức, chương trình đánh giá, trả lương theo thực thi, quản lý theo mục tiêu…
Tóm lại, quản lý công mới bao gồm rất nhiều phương pháp, từ cải cách cơ cấu tổ chức tới việc đổi mới hệ thống tài chính, ngân sách. Vì vậy, quản lý công mới trở thành một thuật ngữ hấp dẫn nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng, quản lý công mới không phải là công cụ cứu giúp cũng như một “thanh gươm thần kỳ” để cải cách chính phủ hữu hiệu. Quản lý công mới bao gồm rất nhiều các giá trị khác nhau, thậm chí là các xung đột. Khi chúng ta nỗ lực để áp dụng các biện pháp cải cách của quản lý công mới, chúng ta nên phân biệt những gì chúng ta có thể áp dụng và các giá trị của nó đối với chính phủ và ngược lại.
3. Quản lý công mới ở Nhật Bản
Nhật Bản đã có truyền thống là một “Nhà nước mạnh” từ thời kỳ Minh Trị (thế kỷ 19). Mặc dù Nhật Bản đã thay đổi từ chế độ chính trị theo kiểu cũ sang chế độ dân chủ sau Chiến tranh thế giới thứ II, nhưng bộ máy hành chính quan liêu mạnh vẫn tồn tại và đóng góp vào việc khôi phục nền kinh tế của đất nước. Vào những năm 1970, Hoa Kỳ và các nước Châu Âu đã chỉ trích rằng thị trường Nhật Bản không bình đẳng, đóng cửa với các nhà tư bản bên ngoài. Năm 1981, Chính phủ đã thành lập Uỷ Ban Lâm thời về Cải cách hành chính (PACR) nhằm “xây dựng lại nền tài chính của Chính phủ mà không cần tăng thuế” và chuẩn bị cho thời kỳ “toàn cầu hoá”. Uỷ ban này do ngài Toshio Doko - một nhà lãnh đạo doanh nghiệp nổi tiếng làm Chủ tịch. Uỷ ban này đã đề nghị Chính phủ thẩm định và áp dụng các biện pháp cải cách nhằm thúc đẩy việc quy chế hoá, phân quyền và tư nhân hoá. Năm 1985, do sự thiếu hụt nhanh chóng về tài chính, hệ thống đường sắt quốc gia của Nhật Bản đã được tư nhân hoá thành 7 công ty độc lập mặc dù gặp sự phản đối mạnh mẽ từ Công đoàn. Các ý kiến của công chúng cũng đã ủng hộ ý tưởng chuyển hoạt động của Chính phủ theo tinh thần kinh doanh. Tuy nhiên, trong thời điểm đó, việc liên kết chặt chẽ giữa các chính khách, quan chức nhà nước và các tập đoàn kinh doanh rất mạnh, đủ để phớt lờ đi các khuyến nghị của Uỷ ban cải cách.
Vào cuối thập kỷ 90, người có tư tưởng cải cách – Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto Ryutaro đã thành lập Hội đồng Cải cách hành chính và đích thân Thủ tướng làm Chủ tịch Hội đồng. Hội đồng đã áp dụng các lý thuyết của quản lý công mới và đưa ra các biện pháp cải cách sau:
- Thành lập Văn phòng Nội các;
- Tổ chức lại các Bộ và cơ quan ở trung ương;
- Chuyển đổi các cơ quan quốc gia thành các pháp nhân hành chính độc lập;
- Bổ nhiệm Thứ trưởng ở các bộ;
- Phân quyền;
- Cải cách công vụ.
- Thành lập Văn phòng Nội các
Văn phòng Nội các mới là tổ chức giúp việc của Thủ tướng. Văn phòng này điều phối các chính sách của Chính phủ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng. Một vài cơ quan và các tổ chức độc lập (Cục Phòng vệ, Cục Tài chính và Uỷ Ban An toàn Quốc gia…) đã chuyển sang trực thuộc Văn phòng Nội các. Đạo luật thành lập Văn phòng Nội các bắt đầu có hiệu lực từ tháng 7/1999.
- Tổ chức lại các Bộ và cơ quan ở trung ương
Tổ chức lại các cơ quan ở trung ương của Chính phủ là một trong những ưu tiên lớn của Chính phủ dưới quyền của Thủ tướng Hashimoto. Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng, Hội đồng Cải cách đã chuẩn bị một kế hoạch cắt giảm một nửa số lượng các bộ, ngành trung ương. Việc cắt giảm này sẽ thành công chủ yếu nhờ việc sáp nhập các bộ và các cơ quan trung ương. Hơn nữa, Chính phủ cũng đã xác định thời hạn tư nhân hoá Bộ Bưu điện và Viễn thông vào năm 2003. Vào tháng 7/1999, Đạo luật về Tổ chức lại các bộ ở trung ương bắt đầu có hiệu lực.
- Bổ nhiệm các Thứ trưởng:
Để tăng cường sự lãnh đạo chính trị đối với các bộ, Chính phủ đã bổ nhiệm các Thứ trưởng ở mỗi bộ để giúp các Bộ trưởng thay thế cho các Thứ trưởng Nghị viện hiện nay (parliamentary vice - minister). Tổng số 22 Thứ trưởng được bổ nhiệm ở mỗi bộ thuộc Nội các. Thêm vào đó, Chính phủ đã bổ nhiệm 26 “phụ tá Nghị viện”, những người sẽ giải quyết việc xây dựng các chính sách và kế hoạch đặc biệt dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng. Điều đó có nghĩa là gần 50 các chính khách được bổ nhiệm cùng với 14 Bộ trưởng (Bộ trưởng Nhà nước) sẽ lãnh đạo bộ máy hành chính.
- Pháp nhân hành chính độc lập:
Chính phủ đã chuyển đổi 80 cơ quan Chính phủ thành các Pháp nhân hành chính độc lập ( Independent Administrative Corporation - IAC). Danh sách các cơ quan này bao gồm các cơ sở in tiền, in ấn, bệnh viện, bảo tàng quốc gia và các phòng thí nhiệm. Trong cơ cấu của các Pháp nhân hành chính độc lập, có một cơ quan đứng đầu sẽ chuẩn bị kế hoạch hoạt động trung hạn và quản lý ngân sách do Chính phủ cung cấp. Địa vị của những người làm việc tại đây sẽ được phân thành 2 loại: công chức (tư cách công chức) và phi công chức. Mục đích đầu tiên của các IAC là nhằm “tách chức năng xây dựng chính sách và chức năng thực hiện chính sách, đổi mới hiệu quả và chất lượng dịch vụ cung cấp cho nhân dân bằng việc giao cho các cơ quan này nhiều quyền tự chủ và trách nhiệm hơn, đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động”. Hiện nay, vấn đề tranh cãi nhất là việc chuyển giao các trường đại học Quốc gia thành pháp nhân hành chính độc lập.
- Phân quyền
Căn cứ trên khuyến nghị của Uỷ ban Thúc đẩy phân quyền, Chính phủ đã sửa đổi các Luật liên quan nhằm chuyển giao các thẩm quyền của trung ương và cho phép địa phương tự chủ nhiều hơn. Trước tiên, Cơ quan Phân quyền hệ thống chức năng, có nhiệm vụ hợp pháp hoá việc kiểm soát chung của Chính quyền trung ương với chính quyền địa phương đã bị huỷ bỏ. Việc thực hiện chính sách phân quyền sẽ biến đổi Chính quyền trung ương và chính quyền địa phương từ mối quan hệ mệnh lệnh – phục tùng chuyển sang quan hệ bình đẳng hơn. Thứ hai, thành lập một bên thứ ba để giải quyết xung đột giữa trung ương và địa phương. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa trung ương và địa phương về tài chính vẫn không thay đổi và vấn đề này tiếp tục chờ các cuộc tranh cãi tiếp theo.
- Cải cách công vụ:
Vào tháng 3/1999, Hội đồng Cải cách hệ thống Công vụ đã đệ trình một báo cáo về cải cách hệ thông công vụ quốc gia. Hội đồng đã đề nghị chương trình cải cách như sau: sửa đổi hệ thống thi tuyển đầu vào, áp dụng nguyên tắc trả lương theo công trạng, xây dựng đạo đức, gia hạn việc nghỉ hưu, thúc đẩy việc trao đổi nhân sự giữa khu vực công và khu vực tư… Các biện pháp này rất hợp lý và có điều không phủ nhận rằng việc áp dung các biện pháp này được thực hiện từng bước và rất cơ bản.
Thông qua các cải cách hành chính gần đây, một điều hiển nhiên rằng các nhà lãnh đạo Nhật Bản dường như có xu hướng tích cực áp dụng các biện pháp cải cách của Quản lý công mới. Tuy nhiên, dường như có rất ít bằng chứng cho rằng các nhà lãnh đạo chính trị thực sự hiểu được ý nghĩa của các tư tưởng “ định hướng theo khách hàng – công dân” hoặc “Chính phủ định hướng theo kết quả”. Ví dụ, việc thành lập các bộ lớn dường như lại là một khoảng cách với các lý thuyết của Quản lý công mới. Đó là việc nhấn mạnh cần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan công quyền qua hình thức phân quyền. Ở trường hợp các pháp nhân hành chính độc lập, các kết quả mong muốn về cải tiến dịch vụ vẫn là một câu hỏi khó trả lời khi Chính phủ tập trung vào việc tinh giảm bộ máy các cơ quan hành chính trung ương. Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng, trong thời kỳ chuyển đổi từ một Nhà nước quan liêu truyền thống tới việc quản trị nhà nước định hướng tới khách hàng, toàn cảnh tương lai cải cách hành chính của Nhật Bản chắc chắn sẽ thay đổi.
4. Cải cách hành chính ở một số nước ASEAN
Từ thời kỳ phi thực dân hoá vào những năm 1950, các nước kém phát triển đã chuyển hướng theo mô hình một chính phủ mạnh để hỗ trợ cho việc phát triển đất nước. Ở Đông Nam Á, các nhà lãnh đạo chính trị có xu hướng trông cậy nhiều vào bộ máy quan liêu để thích ứng và tăng cường kế hoạch phát triển đất nước. Trong quá trình phát triển, nhiều ngành, lĩnh vực chính ở các nước này đã được quốc hữu hoá. Tuy nhiên, tình trạng sản xuất của các ngành được quốc hữu hoá có xu hướng trở nên thứ yếu, nơi mà các nhà lãnh đạo chính trị tận dụng các tập đoàn nhà nước cho việc tuyển dụng những người ủng hộ chính trị.
Sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970, các công ty nước ngoài đổ xô đến các nước Châu Á để tìm kiếm các chi phí sản xuất thấp. Kết quả là các nước Đông Nam Á đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao. Điều này được gọi là “ sự thần kỳ của Châu Á”. Tuy nhiên, khi các nước này phát triển nhiều hơn thì nhân dân ở các nước trên cũng đòi hỏi thêm nhiều dân chủ. Như chúng ta đã chứng kiến những thay đổi chính trị gần đây ở Philippin, Indonesia và Malaysia, chế độ quyền lực theo kiểu cũ đã cho phép dân chủ và tự quản địa phương nhiều hơn.
Thêm nữa, các cải cách chính phủ cấp bách đến từ bên ngoài. Từ những năm 1990, các tổ chức tài trợ quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đã đề nghị các nước nhận viện trợ phải đổi mới việc quản trị nhà nước để sử dụng hiệu quả các hỗ trợ phát triển. Các cơ quan này đã trợ giúp tài chính và các chuyên gia cho việc cải cách công vụ và đổi mới quản lý công. Ở các nước Đông Nam Á, các đòi hỏi đề cải cách Chính phủ càng trở nên cấp thiết sau cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ năm 1997. Các chương trình cải cách Chính phủ ở các nước đang phát triển rất phong phú, từ việc thiết lập các vấn đề cơ bản của quản trị tới hiện đại hoá như đã thực hiện ở các nước phát triển. Các chiến lược cải cách được thực hiện bao gồm:
- Công bằng: Nhà nước pháp quyền, các quy trình tiêu chuẩn, hệ thống công trạng trong công vụ.
- Trách nhiệm: Chương trình đánh giá, hệ thống kế toán và kiểm toán, phân quyền.
- Tin cậy: Các nhà quản lý có trách nhiệm, công khai thông tin, tham gia của công dân
- Hiệu quả: Trả lương theo thực thi công việc, Hiến chương công dân, tư nhân hoá và hợp đồng bên ngoài.
Có một vấn đề đáng lưu ý là khi thực hiện cải cách, các nước này đã phải theo đuổi các xung đột giá trị diễn ra cùng một lúc. Ví dụ, để xây dựng một chính phủ tin cậy, sẽ rất cần thiết cho các nhà lãnh đạo phải công khai các thông tin của Chính phủ cho công chúng. Tuy nhiên, các Chính phủ lại có xu hướng che dấu thông tin vì lo sợ các thông tin này sẽ có lợi cho các lực lượng đối lập. Trong khi theo đuổi các giá trị về hiệu quả thông qua việc tư nhân hoá các công ty nhà nước, các nhà lãnh đạo chính trị có xu hướng thích các doanh nghiệp này tiếp tục hoạt động không hiệu quả do lo ngại nạn thấp nghiệp lớn sẽ diễn ra khi tư nhân hoá. Về vấn đề hiệu quả của Chính phủ, rất nhiều nước đã thực hiện các biện pháp chống tham nhũng, quản lý chất lượng tổng thể và cải cách công vụ. Tuy nhiên, các đảng cầm quyền thường ít ủng hộ các cải cách công vụ, đặc biệt khi họ sử dụng quyền bổ nhiệm về chính trị để kiểm soát bộ máy quan liêu. Đặc biệt, phân quyền và sự tham gia của công dân dường như rất khó thực hiện ở những nơi các nhóm dân tộc địa phương đòi tự quản địa phương.
Cuối cùng, chúng ta có thể nói rằng sẽ rất khó khăn, thậm chí cả rủi ro khi áp dụng lý thuyết Quản lý công mới cho việc cải cách hành chính ở các nước đang phát triển, trừ khi chúng ta thực hiện từng bước việc hình thành các nội dung cơ bản của quản trị hiện đại. Có một điều phổ biến là các nhà lãnh đạo chính trị đã thông qua một cách vội vã việc sao chép các công cụ cải cách. Đúng ra, họ nên đầu tư nhiều hơn cho việc “xây dựng năng lực” của Chính phủ thông qua việc xây dựng một hệ thống chính trị công bằng, một nền tảng pháp luật vững chắc và qua việc phát triển nguồn nhân lực.
5. Hợp tác giữa các nước về cải cách quản trị nhà nước
Như đã đề cập ở trên, Quản lý công mới không phải là một “thanh gươm thần kỳ”. Đúng hơn, nó sẽ trở lên hiệu quả khi phù hợp đối với mỗi môi trường chính trị. Trước khi thích ứng, chúng ta nên thiết lập một hệ thống điều hành mới cho việc quản trị đất nước dựa trên các nguyên tắc công bằng, trách nhiệm, tin cậy và hiệu quả. Để đạt mục đích này, sẽ rất hợp lý khi tằng cường việc trao đổi thông tin về cải cách quản trị giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Ví dụ, kinh nghiệm của Nhật Bản về tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ là bài học cho các nước dự định tư nhân hoá các doanh nghiệp Nhà nước đang thiếu hụt nghiêm trọng về tài chính. Hơn nữa, việc tích cực sử dụng các cơ quan xuyên quốc gia dường như sẽ rất hiệu quả, không chỉ ở Viện Quốc tế về Khoa học hành chính, mà còn sử dụng các tổ chức khu vực cho việc nghiên cứu về quản lý công cũng sẽ rất hiệu quả. Thêm vào đó, việc trao đổi nhân lực, các chuyên gia quản lý giữa các nước sẽ đóng góp cho việc phát trển quản lý công. Ở Nhật Bản, cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) đã thực hiện rất nhiều chương trình đào tạo khác nhau cho các công chức từ các nước đang phát triển. Trường Đại học Quốc gia Yokohama cũng đã khởi động “Chương trình học bổng nghiên cứu luật pháp và phát triển” cho sinh viên từ các nước đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế. Chúng ta tin rằng, việc hợp tác giữa các quốc gia sẽ đóng góp vào sự tiến bộ cho quá trình cải cách quản lý công ở khu vực.
6. Một vài nhận xét
Quản lý công mới đã để lại một dấu ấn đậm nét trong đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Nhật Bản và một vài nước ASEAN. Quá trình áp dụng quản lý công mới ở các quốc gia đi trước là những bài học quý cho Việt Nam khi định hướng áp dụng quản lý công mới vào nền hành chính.
Trước hết, các quốc gia áp dụng quản lý công mới cần xác định những yếu tố phù hợp với đặc điểm của nền hành chính, môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội. Quản lý công mới đề cập đến nhiều khía cạnh của cải cách hoạt động của khu vực công. Tuy nhiên, thực tế không một quốc gia nào áp dụng toàn bộ các nội dung của quản lý công mới mà luôn xác định những trọng tâm của quá trình áp dụng. Điều này xuất phát từ những đặc điểm của mỗi nền hành chính. Việc áp dụng một cách các nhân tố của quản lý công mới không phù hợp với đặc điểm, truyền thống của nền công vụ có thể dẫn đến sự chống đối, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình áp dụng. Mặt khác, để áp dụng cần phải nghiên cứu một cách đầy đủ về bản chất của vấn đề và lường trước những khó khăn có thể xảy ra trong quá trình áp dụng quản lý công mới.
Thứ hai, các cơ quan hành chính cần có sự phân tích và thảo luận kỹ lưỡng về những vấn đề và các giải pháp cho cải cách. Các học giả về quản lý công mới cho rằng nếu không có sự phân tích kỹ lưỡng, thảo luận rộng rãi về những vấn đề và giải pháp giải quyết cũng như nếu không đi đến sự nhất trí về những vấn đề của cải cách thì quá trình thảo luận rất có thể lại quay trở về điểm xuất phát vào bất kể lúc nào.
Thứ ba, để áp dụng quản lý công mới cần tạo sự ủng hộ cải cách liên tục của các đội ngũ thực thi và công chúng. Sự ủng hộ của đội ngũ công chức, đội ngũ thực thi là một điều kiện quan trọng để quản lý công mới đem lại hiệu quả. Bên cạnh đó, sự ủng hộ của công chúng là một vấn đề cần chú ý. Nếu không có sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng thì việc thực hiện cải cách sẽ rất khó khăn. Mặt khác, lợi ích và mối quan tâm của nhân dân rất dễ chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác do đó rất cần lôi kéo sự chú ý và ủng hộ của họ.
Thứ tư, áp dụng quản lý công mới đòi hỏi sự quyết tâm và chỉ đạo mạnh mẽ về cải cách của lãnh đạo đặc biệt là những người đứng đầu chính phủ. Điều này sẽ góp phần tạo ra nỗ lực chung của cả hệ thống hành chính, khắc phục tâm lý ngại thay đổi, chống đối lại quá trình cải cách.
ThS. Lê Anh Tuấn
Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ
Tài liệu tham khảo
1. Barzelay, K. 1992. Breaking though Bureaucracy. University of California Press, Berkeley.
2. Chiavo Campo và P.S.A. Sundaram, Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007 (bản dịch)
3. David Osborn và Ted Gaebler, Sáng tạo lại Chính phủ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Hà Nội, 1997 (bản dịch).
4. Hood, C. (1995), New public management: A new global paradigm, Public Policy and Administration, 10(2):104-117.
5. Osamu Koike, New Public Management in Japan and Southeast Asian Countries: A Magic Sword for Governance Reform, Paper presented at the IIAS/Japan Joint Panel on Public Administration,Bologna, Italy, June 21, 2000.
6. OECD (2003), New Public Management for 21st century.