Kinh nghiệm của một số nước trong xây dựng Hệ thống tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp
Để chuẩn bị cho việc xây dựng các chức danh nghề nghiệp trong các ngành nghề nói chung và tiêu chuẩn ngạch, chức danh nghề nghiệp của công chức, viên chức nói riêng, việc tham khảo kinh nghiệm phân loại nghề nghiệp quốc tế và của một số quốc gia trên thế giới là điều cần thiết. Đây là những bài học quý giá giúp Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn ngạch, chức danh nghề nghiệp chi tiết, cụ thể nhưng cũng phù hợp với xu hướng phát triển của quốc tế. Bài viết giới thiệu kinh nghiệm của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (thường gọi là Mỹ), Nhật Bản và Đức trong việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp.
1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
1.1. Lịch sử và mục đích ra đời của bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp Hoa Kỳ
Tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp của Hoa Kỳ (SOC) được ban hành lần đầu tiên vào năm 1980, tuy nhiên lại không được sử dụng thường xuyên. Văn phòng Quản lý và Ngân sách (OMB) đã lập nên Ủy ban sửa đổi chính sách về tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp (SOCRPC) để sửa đổi SOC năm 2000 (SOC 2000) với mục đích tạo lập nên một hệ thống phân loại giúp các cơ quan Chính phủ và lĩnh vực ngành nghề tư nhân thiết lập dữ liệu so sánh. SOC2000 được hoàn thành là kết quả của bốn năm nghiên cứu của SOCRPC và nhóm hợp tác của các thành viên từ hơn 15 cơ quan của Chính phủ. SOC năm 2010 (gọi tắt là SOC 2010) ra đời đã thay thế phiên bản năm 2000 và tất cả các cơ quan liên bang sử dụng.Trong quá trình áp dụng, SOC 2010 cũng đang được xem xét, sửa đổi như đề xuất sửa đổi đối với những khái niệm của SOC, thay thế những nghề nghiệp mới trong hệ thống cấu trúc cũ và cập nhật những chức danh nghề nghiệp mới.
Cơ quan thống kê liên bang sử dụng SOC2010 để phân loại nhân công và việc làm vào các nhóm nghề nghiệp nhằm mục đích thu thập, tính toán, phân tích và phổ biến dữ liệu. Ngoài ra, cũng giống như SOC2000, SOC2010 ra đời nhằm nâng cao tính hữu ích của các số liệu khi các nguồn tư liệu về nghề nghiệp chủ đạo được trình bày bởi hệ thống thống kê liên bang sẽ cung cấp những số liệu có thể so sánh được, nâng cao tính hữu dụng của hệ thống dữ liệu. Ngoài ra, SOC 2010 được sửa đổi nhằm tăng cường khả năng thu thập dữ liệu và duy trì sự lưu hành của những dữ liệu đó. Không chỉ vậy, SOC được thiết kế để phản ánh cấu trúc nghề nghiệp hiện hành của Mỹ, phân loại tất cả các ngành nghề được trả lương hoặc tạo ra lợi nhuận. SOC quy định các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân bao gồm nghề nghiệp trong lĩnh vực công, tư và quân sự.
Do đó, tất cả các cơ quan liên bang công bố dữ liệu nghề nghiệp cho mục đích thống kê đều được yêu cầu sử dụng SOC nhằm nâng cao khả năng so sánh dữ liệu thông qua các chương trình liên bang; các bang và chính quyền địa phương vì thế cũng được khuyến khích sử dụng hệ thống quốc gia này để nâng cao sự tương đồng trong phân loại và phân tích nghề nghiệp.
Để thuận lợi trong việc phân loại và trình bày dữ liệu, SOC được sắp xếp thành hệ thống gồm bốn cấp độ từ các nhóm chính đến từng nghề nghiệp chi tiết. Trong SOC, có 23 nhóm chính(major groups)được chia thành 97 nhóm nghề nghiệp nhỏ hơn (minor groups). Mỗi nhóm nhỏ lại được chia nhỏ thành 461 nghề nghiệp rộng (broad occupation) và 840 nghề nghiệp cụ thể (detailed occupation). Việc mô tả chi tiết nghề nghiệp trong SOC tương tự như những yêu cầu về chức năng nghề nghiệp, trong nhiều trường hợp bao gồm cả những kỹ năng, bằng cấp và/hoặc yêu cầu đào tạo. Dựa trên nhiệm vụ, công việc đang thực hiện, mỗi người làm công sẽ được phân loại, sắp xếp vào một trong 840 ngành nghề nghiệp cụ thể đã được phân loại.
1.2. Nguyên tắc phân loại nghề nghiệp của SOC
- SOC bao gồm tất cả các nghề nghiệp được trả lương hoặc đem lại lợi nhuận, bao gồm cả các công việc được thực hiện trong các công ty gia đình. Nó không bao gồm những nghề nghiệp dành riêng cho tình nguyện viên. Mỗi công việc chỉ được phân vào một nhóm nghề nghiệp duy nhất ở mức phân loại thấp nhất.
- Nghề nghiệp được phân loại dựa trên các công việc được thực hiện và trong một số trường hợp còn phụ thuộc vào kĩ năng, bằng cấp và yêu cầu đào tạo cần thiết đối với những công việc nhất định.
- Những người lao động chủ yếu liên quan đến việc lập kế hoạch và chỉ đạo được phân vào nhóm nghề nghiệp quản lý có mã là 11-0000. Nghĩa vụ của nhóm này có thể bao gồm cả giám sát.
- Những người giám sát được phân loại vào nhóm lớn từ 13-0000 đến 29-0000 thường phải có kinh nghiệm làm việc và hoạt động lao động giống như với những người lao động mà họ giám sát, vì thế họ được phân loại cùng với những người lao động mà họ giám sát.
- Người lao động trong nhóm lớn 31-0000 là nghề nghiệp hỗ trợ y tế được giám sát bởi những người lao động trong nhóm lớn 29-0000 là nhóm thầy thuốc và kỹ thuật chuyên môn. Vì vậy, không có nhóm người giám sát cấp cao của nhóm nghề nghiệp hỗ trợ y tế trong nhóm lớn 31-0000
- Người lao động trong nhóm lớn từ 33-0000 đến 53-0000 có nhiệm vụ chính là giám sát được phân loại tương ứng vào nhóm giám sát cấp cao tương ứng bởi hoạt động nghề nghiệp của họ khác biệt so với những công nhân mà họ giám sát.
- Người học việc và người đang được đào tạo được phân loại vào nghề nghiệp mà họ đang được đào tạo, trong khi những người giúp việc và người phụ tá được phân loại riêng biệt vì họ không được đào tạo cho nghề nghiệp mà họ đang trợ giúp.
- Nếu nghề nghiệp không có trong danh sách các nghề nghiệp cụ thể trong bảng phân loại thì nó được phân lại vào nhóm “những nghề nghiệp khác” hoặc nhóm “những nghề nghiệp còn lại”.
- Cục Thống kê lao động Mỹ và Cục điều tra dân số Mỹ được giao nhiệm vụ thu thập và báo cáo số liệu về sự lao động Mỹ thông qua toàn bộ nhóm nghề nghiệp lớn trong SOC. Vì vậy, với một nghề nghiệp cụ thể trong SOC, cả Cục Thống kê lao động và Cục điều tra dân số đều phải thu thập và báo cáo dữ liệu về nghề nghiệp đó.
1.3. Cấu trúc của SOC
Các nghề nghiệp trong SOC được phân loại theo bốn cấp độ tập hợp phù hợp với nhu cầu khác nhau của người sử dụng. Mỗi cấp độ thấp hơn đều mô tả những nhóm nghề nghiệp cụ thể hơn. Có hơn 23 nhóm nghề nghiệp lớn. Mỗi nhóm lớn này được chia thành các nhóm nhỏ hơn. Mỗi nhóm nhỏ này sẽ lại được chia thành các ngành nghềrộng. Các ngành nghềrộng này sẽ được phân thành một hoặc nhiều nghề nghiệp cụ thể.
Mô hình này khá toàn diện, bao gồm tất cả các nhóm nghề nghiệp trong nền kinh tế Mỹ. Nếu một nghề nghiệp cụ thể nào đó không được liệt kê, nó sẽ được xếp vào nhóm “các nghề nghiệp còn lại” với những nghề nghiệp tương tự.
Các nghề nghiệp cụ thể được làm rõ cốt để mỗi nghề nghiệp sẽ bao gồm những người lao động làm cùng một công việc được miêu tả trong phần nguyên tắc thứ 2 nêu trên. Phần định nghĩa sẽ đưa ra nhiệm vụ của người lao động trong một ngành nghề cụ thể. Một số định nghĩa bao gồm cả nghĩa vụ được thực hiện bởi người lao động trong ngành nghề khác, dẫn chiếu ví dụ tới nghề nghiệp đó phải được cung cấp trong định nghĩa.
2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
2.1. Lịch sử và mục đích ra đời của bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp Nhật Bản.
Nguồn gốc của bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp Nhật Bản bắt nguồn từ Bảng phân loại nghề nghiệp được sử dụng trong lần điều tra dân số lần thứ nhất được tiến hành vào năm 1920. Bản phân loại nghề nghiệp này gần giống với bản phân loại ngành công nghiệp trong điều kiện ngày nay với sự tăng thêm một số ngành nghề cụ thể. Vào thời điểm đó, không có sự phân biệt rõ ràng nào giữa khái niệm phân loại nghề nghiệp và ngành công nghiệp. Sự khác nhau giữa khái niệm về phân loại nghề nghiệp và ngành công nghiệp được hình thành lần đầu tiên trong bản điều tra dân số lần thứ 3 năm 1930. Sau đó, từ bản điều tra dân số lần thứ 5 trở đi, bản phân loại nghề nghiệp được tiến hành riêng biệt với bản phân loại ngành công nghiệp. Trong bản điều tra dân số lần thứ 2 (năm 1925) và bản điều tra dân số lần thứ 4 (năm 1935) thì không có số liệu cụ thể đối với từng nghề nghiệp khác nhau.
Bản báo cáo về việc thành lập tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp Nhật Bản được tiến hành trong hội nghị lần thứ 90 của Ủy ban Thống kê vào tháng 3/1960, cơ quan quản lý hành chính đã thiết lập tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp cùng thời điểm đó. Khi bản tiêu chuẩn phân loại được ra đời, nhiều thay đổi trong cách thức phân loại nghề nghiệp đã được thực hiện nhằm bắt kịp với xu hướng kinh tế - xã hội hiện thời, tránh những bất cập khi áp dụng trên thực tế. Bản tiêu chuẩn phân loại đã được sửa đổi lần đầu vào năm 1968, lần thứ hai vào năm 1979, lần thứ ba vào năm 1986 và lần thứ tư vào năm 1997. Cùng với đó là các bước phát triển trong cấu trúc nghề nghiệp cùng với xu hướng thay đổi kinh tế, xã hội. Các bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp trước đây của Nhật Bản không được thiết lập dựa trên pháp luật hoặc thông qua ý kiến cộng đồng. Bộ Thông tin và nội vụ đã đưa ra bản thảo về bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp (bản sửa đổi lần thứ năm) dựa trên nội dung của bản sửa đổi năm 1997, có tham khảo thêm ý kiến của Bộ Thống kê về bản thảo mới này như là tiêu chuẩn thống kê vào tháng 4/2009. Tháng 12/2009, Bộ Thông tin và nội vụ của Nhật Bảnban hành bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp.
Mục đích của bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp nhằm đưa ra cơ sở thống kê tiêu chuẩn để đảm bảo sự đồng bộ và toàn diện của số liệu thống kê và thuận tiện trong quá trình sử dụng. Bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp được xây dựng nhằm phân loại nghề nghiệp thông qua những điểm tương đồng giữa các nghề nghiệp và sắp xếp chúng một cách có hệ thống với mục đích thể hiện các số liệu chính thức cho mỗi ngành nghề cụ thể.
2.2. Những nguyên tắc cơ bản của bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp Nhật Bản
(i) Giải thích các khái niệm
“Công việc” chỉ những nhiệm vụ cụ thể được thực hiện bởi mỗi cá nhân
“Bồi thường” chỉ tới bất cứ vật chất gì được sử dụng để bù đắp cho lao động như lương tuần, lương tháng, lợi nhuận hoặc bất kỳ thứ gì khác.
“Nghề nghiệp” chỉ tới công việc được tiến hành bởi mỗi cá nhân nhằm nhận lại những khoản bù đắp tương ứng. (Những công việc được tiến hành bởi các thành viên trong gia đình liên quan tới việc kinh doanh gia đình trong mỗi hộ cá thể có thể được coi là một nghề nghiệp miễn là công việc đó được tiến hành thường xuyên và trong một khoảng thời gian xác định.)
(ii) Các nguyên tắc áp dụng cho bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp và thực hiện việc phân loại nghề nghiệp
Bản phân tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp áp dụng vào công việc và cá nhân thông qua công việc của họ và được sử dụng để biểu thị số liệu thống kê của mỗi nghề nghiệp.
Sự phân loại nghề nghiệp được thiết lập độc lập với sự phân loại ngành công nghiệp, hình thức làm việc của cá nhân và thời gian làm việc của công việc.
Bản phân loại được thiết lập bằng cách xem xét một công việc được tạo nên như là một nghề trong xã hội như thế nào và được đánh giá bằng mức độ giống nhau trong nội dung công việc, số người liên quan đến công việc và các nhân tố khác. Sự tương đồng trong nội dung công việc được xem xét bởi các yếu tố sau: kiến thức và kỹ năng yêu cầu trong công việc; vai trò được thể hiện trong cơ sở và các tổ chức khác; hàng hóa, dịch vụ cung cấp; công cụ, máy móc, thiết bị cần thiết cho công việc; môi trường làm việc; bằng cấp, giấy phép cần thiết cho công việc…
2.3. Cấu trúc của Bảng tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp
Bảng phân loại nghề nghiệp của Nhật Bản bao gồm có 12 nhóm lớn, 74 nhóm nhỏ và 329 nhóm đơn vị. Việc phân chia chi tiết này sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc tra cứu ngành nghề và mô tả những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, bằng cấp, giấy phép… đối với mỗi ngành nghề khác nhau.
Tên của các nhóm chính và số lượng các nhóm nhỏ, nhóm đơn vị trong từng nhóm chính cụ thể như sau:
Nhóm chính (Major Group) |
Nhóm nhỏ (minor group) |
Nhóm đơn vị (Unit group) |
A-Quản lý và hành chính |
4 |
10 |
B- Chuyên gia và kỹ sư |
20 |
91 |
C-Văn phòng |
7 |
26 |
D-Kinh doanh |
3 |
19 |
E-Dịch vụ |
8 |
32 |
F-An ninh |
3 |
11 |
G-Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản |
3 |
12 |
H-Sản xuất chế biến |
11 |
69 |
I-Vận tải và vận hành máy |
5 |
22 |
J-Xây dựng và hầm lò |
5 |
22 |
K-Vận chuyển, lau dọn, đóng gói và công việc liên quan |
4 |
14 |
L- Các ngành nghề còn lại |
1 |
1 |
Tổng số: 12 ngành |
74 |
329 |
3. Kinh nghiệm của Đức
3.1. Lịch sử và mục đích ra đời của bản phân loại nghề nghiệp năm 2010 của Đức
Bản phân loại nghề nghiệp năm 2010 của Liên bang Đức (KldB 2010) hoàn thiện đã thay thế bản phân loại quốc gia năm 1988 (KldB 88) và bản phân loại quốc gia năm 1992 (KldB 1992). Bản phân loại nghề nghiệp mới được thông qua là điều tất yếu bởi những hai lý do chính:
Thứ nhất, hai bản phân loại nghề nghiệp trước đều không phản ánh hết những nghề nghiệp hiện thời của Đức. Cả hai bản KldB88 và KldB 92 đều cơ bản dựa trên phân loại nghề nghiệp được phát triển từ những năm 70, do đó nó phản chiếu mô hình nghề nghiệp của những năm 60. Chúng thể hiện những nghề nghiệp ở những phương thức khác biệt, trong khi những nghề nghiệp đó đã có sự thay đổi lớn ở hiện tại.
Thứ hai, hai bản thống kê trước tồn tại những vấn đề cơ bản trong hệ thống. Bản phân loại nghề nghiệp cho thấy sự không đồng nhất trong cấu trúc và có sự trùng lặp lớn. Ở cùng một cấp độ phân loại nghề nghiệp nhưng lại có sự khác biệt về cách thức mô tả. Những yêu cầu về vị trí nghề nghiệp được quy định không đồng nhất, ví dụ như quy định "nhà hoá học" (ở thứ tự 611 trong bảng phân loại nghề nghiệp), "trợ lý hóa học" (ở thứ tự 626) và "nhân viên phòng thí nghiệm hóa học" (ở thứ tự 633) được xếp ở các thứ tự nghề nghiệp khác nhau trong bảng phân loại nghề nghiệp, trong khi đó quy định về nghề “xử lý dữ liệu” (thứ tự nghề nghiệp 774 trong bảng phân loại) lại bao gồm tất cả các vị trí từ lập trình ứng dụng đến người đứng đầu bộ phận công nghệ thông tin. Như vậy, theo cách thức phân loại như trên thì những người làm việc trong ngành công nghiệp hóa chất, khi thay đổi vị trí sẽ dẫn đến sự thay đổi nghề nghiệp, trong khi điều này sẽ không đúng trường hợp cho các vị trí trong nghề “xử lý dữ liệu”.Chính vì vậy, sự ra đời của bản phân loại nghề nghiệp mới là vô cùng cần thiết.
Mục tiêu của KldB 2010 là tạo lập nên một bản phân loại nghề nghiệp mới cập nhật hơn đáp ứng nhiều nhu cầu sử dụng, một mặt thiết lập những đặc trưng riêng biệt của hệ thống lao động Đức với mô hình khác biệt; mặt khác tạo sự tương đồng với các bản phân loại lao động thế giới khác (đặc biệt là bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp thế giới năm 2008 – ISCO 2008). Không giống như bản phân loại nghề nghiệp trước đây của Đức được phát triển dựa trên sự suy luận của những chuyên gia về nghề nghiệp, bảng phân loại mới được thiết lập trên những giả thuyết, những phân tích thực nghiệm về sự tương đồng giữa các nghề nghiệp được bổ sung bởi các kết quả tổng hợp đã được kiểm tra chặt chẽ. Nhằm mục tiêu đạt được sự khách quan tối ưu trong nền tảng cấu trúc của KldB 2010, thông tin về nghề nghiệp của cơ quan lao động liên bang đã được phân tích bằng cách sử dụng các thủ tục thực nghiệm của việc phân loại. Các thủ tục thực nghiệm này là sự tiến bộ cốt lõi trong việc xây dựng bản phân loại nghề nghiệp mới.
3.2. Cấu trúc của bản phân loại nghề nghiệp 2010 (KldB 2010)
Các nhà phân tích đã chỉ ra rằng KldB 2010 khá khác biệt so với những bản phân loại nghề nghiệp trước của Đức, KldB 2010đã có thêm những nghề nghiệp mới xuất hiện. Đặc biệt là những quy định liên quan đến ngành thương mại và dịch vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hơn một thập kỉ qua đối với sự thay đổi kinh tế và công nghệ.
Cấu trúc của KldB 2010 được chia thành 5 cấp độ:
- Lĩnh vực nghề nghiệp (Occupational Areas - mã hóa bởi 1 chữ số)
- Nhóm nghề nghiệp chính (Occupational Main-Groups - mã hóa bởi 2 chữ số)
- Nhóm nghề nghiệp (Occupational Groups - mã hóa bởi 3 chữ số)
- Tiểu nhóm nghề nghiệp (Occupational Sub-Groups - mã hóa bởi 4 chữ số)
- Loại nghề nghiệp (Occupational Types - mã hóa bởi 4 chữ số)
Ở cấp độ cao nhất, KldB 2010 phân thành 10 lĩnh vực nghề nghiệp. Ở ba cấp độ phân loại tiếp theo được xác định dựa trên các mức độ đòi hỏi "sự tinh thông/thành thạo" của một nghề. "Sự tinh thông/thành thạo"của một nghề được xác định bởi các kỹ năng, khả năng và kiến thức cần thiết cho một nghề nghiệp. Các ngành nghề được nhóm lại trên cơ sở sự tương đồng của những kỹ năng, khả năng và kiến thứccần thiết.
Các nghề nghiệp với cùng mức độ tương đồng được xếp vào cùng một cấp độ phân loại. Ở những mức độ càng thấp thì sự tương đồng giữa các nghề nghiệp càng cao.
Ở cấp độ thứ 5 – cấp thấp nhất, cấu trúc phân loại được chia trên cơ sở các mức độ yêu cầu. Việc phân ra các mức độ yêu cầu này là nhằm phản ánh chính xác mức độ khác nhau trong sự phức tạp của những nghề có một sự tương đồng cao về chuyên môn nghề nghiệp. KldB 2010 phân ra bốn mức độ yêu cầu để phán ánh mức độ phức tạp của một nghề. Giả định để thực hành một nghề nghiệp nhất định đòi hỏi một người phải đáp ứng được tiêu chuẩn nhất định về kỹ năng, khả năng và kiến thức. Trước hết, các mức độ yêu cầu này được thể hiện ở bằng cấp chuyên môn nhất định. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn về kỹ năng, khả năng và kiến thức cần thiết để thực hành một nghề nghiệp cũng có thể được tăng lên thông qua kinh nghiệm làm việc và quá trình học tập thông qua phương pháp thực nghiệm. Ở đây, việc xem xét là bằng cấp chuyên môn của người thực hành nghề nghiệp là không thích hợp mà đối tượng xem xét đúng hơn là mức độ yêu cầu mà thường được đặt ra cho hoạt động nghề nghiệp này. Điều này được thể hiện cụ thể ở bảng sau:
Bốn mức độ yêu cầu của KldB 2010
Mức độ yêu cầu |
Trình độ yêu cầu nghề nghiệp thông thường |
|
1 |
Hoạt động không có tay nghề hoặc bán lành nghề |
Không yêu cầu có bằng cấp nghề nghiệp, hoặc yêu cầu thường xuyên đào tạo nghề một năm |
2 |
các hoạt động chuyên môn |
Có ít nhất là hai năm đào tạo nghề, hoặc đã tốt nghiệp trường dạy nghề |
3 |
Các hoạt động chuyên môn phức tạp |
Trình độ chuyên môn như nghệ nhân bậc thầy hay kỹ thuật viên hoặc tương đương trình độ tốt nghiệp trường cao đẳng kỹ thuật, hoặc đã tốt nghiệp một trường đào tạo nghề hoặc có bằng cử nhân |
4 |
Các hoạt động rất phức tạp |
Hoàn thành chương trình đại học ít nhất 4 năm |
Từ cách thức xây dựng Bảng tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp của Mỹ , Đức và Nhật Bản, có thể nhận thấy, các quốc gia đều quan tâm xây dựng hệ thống phân loại nghề nghiệp từ sớm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quản lý và sự đồng bộ về chất lượng chuyên môn của các ngành nghề. Hệ thống phân loại nghề nghiệp của các quốc gia đều dựa trên bảng phân loại nghề nghiệp quốc tế ISCO2008, được xây dựng một cách quy mô bao gồm tất cả các ngành nghề trong nền kinh tế bao gồm cả lĩnh vực công và tư. Đây là cách thức xây dựng mang tính bao quát, có sự đồng bộ trong yêu cầu về chuyên môn kỹ thuật trong tất cả các ngành nghề. Ngoài ra, các bản tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp thường xuyên được cập nhật, sửa đổi, bổ sung các ngành nghề mới cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện Việt Nam hiện tại, khi chưa thể xây dựng một hệ thống phân loại nghề nghiệp quy mô và toàn diện đối với tất cả các ngành nghề nói chung và tiêu chuẩn ngạch, chức danh nghề nghiệp của công chức, viên chứcnói riêng thì việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế để xây dựng nên những tiêu chí, tiêu chuẩnphân loại nghề nghiệp là cần thiết./.
Phan Thị Vinh
Viện Khoa học tổ chức nhà nước
Tài liệu tham khảo:
1. 2010 SOC User guide – U.S Bureau of Labor Statistics
2. http://www.stat.go.jp/english/index/seido/shokgyou/index09.htm
3. The German Classification of Occupations 2010 – Structure, Coding and