🚀 Premium⚡️

Đôi nét về Hệ thống công vụ Vương quốc Đan Mạch

{getToc} $title={Xem nhanh}

Vương quốc Đan Mạch (Kingdom of Denmark - sau đây gọi tắt là Đan Mạch) là một nước quân chủ lập hiến và là một cộng đồng gồm bản thân Đan Mạch ở Bắc Âu và hai quốc gia tự trị cấu thành là Faroe ở Bắc Đại Tây Dương và Greenland ở Bắc Mỹ. Đan Mạch  phía Nam giáp Đức, ba mặt còn lại giáp biển Bắc và biển Baltic. Diện tích: chính quốc: 43.094 km2 ; quần đảo Faroe: 1.399 km2; đảo Greenland: 2.175 km2. Dân số: 5,55 triệu người (7/2010), trong đó 9,9% là người nước ngoài. Thủ đô là Cô-pen-ha-gen (Copenhagen).

 I. HỆ THỐNG TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC

 1. Nghị viện:

 Đan Mạch được điều hành theo chế độ dân chủ đại nghị. Điều này có nghĩa là các quyết định quan trọng nhất đều được các chính trị gia ban hành – trong Nghị viện Đan Mạch, trong các hội đồng tỉnh và trong các hội đồng địa phương - tất cả đều do nhân dân bầu ra.

 Nghị viện Đan Mạch gồm 179 ghế được phân cho các đảng phái chính trị theo tỷ lệ đại diện (trong đó 175 ghế là cho Đan Mạch, 2 ghế cho đảo Faroe và 2 ghế dành cho Greenland). Các nghị sĩ Đan Mạch được bầu theo nhiệm kỳ tối đa bốn năm. Tuy nhiên, Thủ tướng Đan Mạch có quyền giải tán Nghị viện và kêu gọi một cuộc bỏ phiếu trước thời điểm kết thúc của nhiệm kỳ bốn năm.

 Các chức năng chính của Nghị viện là thảo luận, phê duyệt dự thảo dự án luật và giám sát Chính phủ và nền hành chính.

 2. Cơ quan hành pháp nhân dân

 Chính phủ bao gồm các bộ trưởng, đứng đầu là Thủ tướng. Nếu Chính phủ không được sự ủng hộ của phần lớn đại biểu trong Nghị viện, Chính phủ phải từ chức hoặc kêu gọi một cuộc tổng tuyển cử.

 Thủ tướng sẽ bổ nhiệm nội các, Bộ trưởng chịu trách nhiệm chính trị cao nhất về Bộ do mình quản lý trước Nghị viện và chịu trách nhiệm pháp lý trước Tòa án của Vương quốc.

Thanh tra thực hiện giám sát và kiểm soát chính quyền Trung ương và các thành phố, Thanh tra do Quốc hội bầu tại mỗi cuộc tổng tuyển cử mới.

Quyền hành pháp được trao cho các bộ và các cơ quan thẩm quyền địa phương được gọi chung là “cơ quan hành pháp nhân dân”.

3. Tư pháp

Các tòa án Đan Mạch độc lập với Chính phủ và Nghị viện. Điều này nghĩa là cả Chính phủ và Nghị viện đều không thể gây ảnh hưởng đến các quyết định của tòa án.

Đan Mạch có Tòa án Tối cao, Tòa án Dân sự tối cao và các tòa án thành phố/tỉnh. Ngoài ra, có rất nhiều tòa án đặc biệt giải quyết các vụ việc trong những lĩnh vực đặc biệt. Ví dụ như Tòa án Công nghiệp Đan Mạch và Tòa án Thương mại và Hàng hải Đan Mạch.

Các tòa án địa phương và Tòa án Dân sự Tối cao

Hầu hết các vụ việc – cả dân sự lẫn hình sự - đều được cố gắng giải quyết tại các tòa án địa phương. Đa số các bản kháng án từ một tòa án địa phương đều chuyển lên Tòa án Dân sự tối cao.

Tòa án Tối cao

Tòa án Tối cao Đan Mạch là tòa án quốc gia cao nhất Đan Mạch. Điều này nghĩa là Tòa án Tối cao chỉ giải quyết những trường hợp kháng án – thường là từ Tòa án Dân sự Tối cao. Các quyết định của Tòa án Tối cao Đan Mạch mang tính chất chung thẩm.

Tòa Phúc thẩm Đặc biệt

Bất kỳ công dân nào cũng có thể khiếu nại lên Tòa Phúc thẩm Đặc biệt (Den Særlige Klageret) nếu người đó yêu cầu mở lại một vụ kiện hình sự, ví dụ, nếu có thêm thông tin mới, hoặc người đó không thỏa mãn với cách mà thẩm phán hoặc luật sư bị cáo giải quyết vụ kiện có thể khiếu nại lên Tòa Phúc thẩm Đặc biệt

4. Tổ chức vùng

Các địa phương ở Đan Mạch được điều hành bởi các hội đồng dân bầu một cách độc lập.

Mức độ phân cấp ở Đan Mạch là tương đối cao. Năm 2007, một cuộc cải cách đã được thực hiện dẫn đến sự thay đổi toàn bộ bản đồ các thành phố cũng như sự phân bố quyền lực và vị trí giữa Nhà nước, khu vực và các đô thị.

14 tỉnh đã được thay thế bằng năm khu vực được điều hành bởi Hội đồng khu vực, do dân chúng bầu chọn. Các hội đồng tỉnh giải quyết nhiều nhiệm vụ cần được giải quyết ở cấp độ khu vực. Ví dụ, các thành phần trong hệ thống vận tải công cộng, việc điều hành các bệnh viện và sự quản lý giám sát môi trường tổng thể.

271 thành phố đã được giảm xuống còn 98, dưới sự quản lý của Hội đồng thành phố do dân chúng bầu chọn, với chức năng thu thuế, giáo dục, môi trường, giao thông.

Các cuộc bầu cử khu vực và địa phương được tổ chức 4 năm một lần (không có bầu cử sớm hơn theo quy định).

II. HỆ THỐNG CÔNG VỤ

Mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và cá nhân người lao động thường được điều chỉnh bởi Thỏa ước tập thể.

Tuy nhiên, công chức chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật riêng. Có hai loại nhân viên công vụ, được điều chỉnh bởi hai hệ thống quy định khác nhau.

Từ năm 2001, Thông tư 11/12/2000 ban hành quy định cụ thể những người là công chức, áp dụng đối với công chức làm việc trong khu vực nhà nước và Giáo hội quốc gia. Theo đó, số lượng những người là công chức của Đan Mạch đã giảm và hiện nay chiếm khoảng 36%. Công chức là những người làm trong các lĩnh vực: quản lý, tư pháp, cảnh sát, quản lý nhà tù, quốc phòng,… Các nhóm còn lại thường được quy định trong thoả ước tập thể.

Các nhân viên chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật lao động và thoả ước tập thể được ký kết giữa Bộ Tài chính và tổ chức công đoàn. Công chức phải tuân thủ các quy định pháp luật về công chức và Luật Hưu trí. Pháp luật điều chỉnh các vấn đề về quyền và nghĩa vụ, kỷ luật, miễn nhiệm và lương hưu, việc xác định tiền lương và điều kiện làm việc khác đối với công chức có thể thương lượng tập thể.

Ngoài ra còn có hai loại nhân viên công vụ: nhân viên điều phối và nhân viên hợp đồng. Hình thức hợp đồng cá nhân được áp dụng đối với các nhà quản lý cấp cao, với mức lương linh hoạt, với quy tắc không giống nhau, việc miễn nhiệm và chế độ hưu trí đặc biệt,… Các điều kiện được thỏa thuận giữa người lao động và cơ quan sử dụng lao động. Cả hai loại nhân viên trên đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động chung.

Sự khác biệt chính giữa công chức với các nhân viên công vụ khác là công chức không được đình công; được hưởng 3 năm lương nếu họ bị sa thải, và hệ thống hưu trí của họ được xác định bởi các lợi ích (Xem Bảng 1).

Bảng 1

Người lao động dưới sự điều chỉnh của

Thỏa ước tập thể

Công chức

Khuôn khổ pháp lý điều  chỉnh

Thỏa ước chung,

Thỏa ước tập thể và các quy định pháp luật về lao động nói chung

Hiến pháp, Luật Công vụ, Thỏa ước chung, Thỏa ước tập thể và quy định pháp luật về lao động nói chung (trừ các quy định về  nghỉ phép và Luật Tiền lương)

Các thủ tục nếu không đạt được Thỏa ước tập thể

 

Các thủ tục quy định trong Pháp luật lao động nói chung

Công chức không được đình công.

Bộ Tài chính chịu trách nhiệm xây dựng Dự thảo luật trình Nghị viện xem xét.

Thời gian thử việc

Nhân viên trong biên chế thử việc tối đa là 3 tháng. Không áp dụng cho các đối tượng khác

Thường là 2 năm

Vi phạm nghĩa vụ

Có thể bị áp dụng các biện pháp cảnh cáo và sa thải

Bị xử lý vi phạm kỷ luật

theo quy định tại Luật Công vụ.

Chế độ nghỉ ốm

Được hưởng lương bình thường trong thời gian nghỉ ốm và được hưởng các quyền lợi theo như quy định trong Luật về trợ cấp.

Được trả lương bình thường trong thời gian nghỉ ốm

Thông báo trước khi hết hạn hợp đồng (người lao động)

 

01 tháng đối với nhân viên trong biên chế. Đối với lao động trả lương theo giờ có thể báo trước thời hạn tối đa là 01 tháng

3 tháng

Thông báo trước khi hết hạn hợp đồng (người quản lý)

Từ 1 đến 6 tháng tùy theo thâm niên.

Đối với người được trả lương theo giờ, tối đa là 3 tháng

Thường là 3 tháng

Lương hưu

Lương hưu được trả khi nghỉ hưu hoặc rút để chi  chi trả các khoản chăm sóc khi ốm đau

Luật Lương hưu quy định việc chi trả lương hưu, chế độ ốm đau đối với công chức

Hiến pháp Đan Mạch không cho phép công chức là công dân nước ngoài, tuy nhiên người nước ngoài vẫn được tuyển dụng và hưởng quyền tương tự như công chức (bao gồm cả chế độ hưu trí), điều này phù hợp với các quy định liên quan đến quyền tự do luân chuyển của người lao động ngoại trừ lĩnh vực quốc phòng và quản lý nhà tù.

Cơ quan quản lý việc làm trong khu vực công.

Cơ quan quản lý các công chức nhà nước là cơ quan thuộc Bộ Tài chính. Cơ quan này là có trách nhiệm quản lý Nhà nước chung về sử dụng lao động trong các vấn đề tiền lương, lương hưu, chính sách nhân sự và quản lý. Cơ quan quản lý các công chức nhà nước tiến hành thương lượng tập thể và các thoả thuận khác với các tổ chức ngành nghề đại diện cho khoảng 178.000 lao động trong khu vực nhà nước.

Theo thống kê: Khu vực công sử dụng tổng cộng 35,7% dân số lao động của Đan Mạch, trong đó: ở các thành phố là 25,5%; Khu vực nhà nước 7%, các doanh nghiệp nhà nước 3,3%.

Quyền và nghĩa vụ của người lao động trong khu vực công

Thời gian làm việc được xác định trong thoả ước tập thể và được điều chỉnh bởi Luật Môi trường làm việc và các quy định khác nhau ở châu Âu. Ở Đan Mạch hiện nay quy định thời gian làm việc của người lao động là 37 giờ/tuần.

Pháp luật cũng quy định  thời giờ nghỉ ngơi của người lao động là 11 giờ không bị gián đoạn mỗi ngày.

Ở cấp địa phương, có thể thỏa thuận về thời giờ làm việc linh hoạt và đảm bảo sự cân bằng giữa công việc-cuộc sống. Đối với người lao động trong khu vực nhà nước, kỳ nghỉ lễ được chi trả bao gồm tiền lương cộng với khoản trợ cấp đặc biệt bằng 11/2 % thu nhập của năm trước.

Thoả ước tập thể năm 2008 đã thay đổi một số quy định về chế độ thai sản và chế độ nghỉ phép của người bố. Giống như trước, quy định mới cho phép người bố được nghỉ phép từ khi sinh con đến tuần thứ 14 sau khi sinh. Những người chưa kết hôn nhưng đã chung sống với nhau 2 năm rưỡi cũng được áp dụng tương tự. Sau tuần thứ 14 theo quy định mới cho phép bố, mẹ được nghỉ 6 tuần phép để chăm sóc con. Bố mẹ có thể nghỉ phép đồng thời hoặc có thể luân phiên nhau.

Hệ thống chức nghiệp. Đào tạo

Đào tạo được coi là phương thức hiệu quả để nâng cao kỹ năng và khả năng thích ứng tốt hơn đối với công việc cho công chức. Nói cách khác, đào tạo nhằm làm cho công chức giải quyết tốt hơn các nhu cầu của công dân. Hoạt động đào tạo do Bộ Tài chính điều phối, các Sở và các cơ quan có trách nhiệm đào tạo các chuyên ngành thuộc lĩnh vực quản lý riêng của mình. Đào tạo được coi là quyền và nghĩa vụ đối với người lao động.

Trong những năm gần đây, đào tạo ngày càng được đề cao tầm quan trọng và được coi đây là một quá trình liên tục, liên quan đến sự phát triển nghề nghiệp. Trong lĩnh vực hành chính, yếu tố thâm niên ngày càng ít quan trọng, điều này có lợi cho hệ thống đánh giá hiệu quả làm việc của công chức.

Do đó, từ vị trí ban đầu công chức được tuyển dụng đã áp dụng và căn cứ vào việc đánh giá trình độ và kinh nghiệm của công chức, việc đánh giá hiệu quả của mỗi vị trí được gắn với các mục tiêu và kết quả đạt được.

Tiền lương

Việc tuyển dụng công chức tại các Bộ, cơ quan giới hạn trong tổng số biên chế đã được quy định. Đối với các tổ chức khác như các trường đại học, các trường cao đẳng kỹ thuật thì việc tuyển dụng tùy thuộc vào ngân sách của tổ chức đó.

Tiền lương của công chức thuộc chính quyền Trung ương được xác định tùy theo cấp bậc.

Trong khu vực nhà nước, quy định điều chỉnh tiền lương đã được thỏa thuận đảm bảo rằng lương trong khu vực công là tương đương với khu vực tư nhân, thông qua việc so sánh sự tăng trưởng của thị trường lao động và khu vực nhà nước. Trong trường hợp có sự khác nhau, 80% phần chênh lệch được tính vào các thỏa thuận lương tiếp theo như một sự điều chỉnh được chính quyền trung ương thông qua. Quy định này làm cho khu vực tư nhân thành tham chiếu lâu dài cho việc trả lương trong khu vực nhà nước.

• Phân cấp cho các cơ quan hiểu rõ về các điều kiện làm việc, các kỹ năng và sự nỗ lực của nhân viên.

• Có sự liên quan giữa tiền lương với kết quả và các kỹ năng cá nhân của người lao động.

• Tạo động lực trong lao động thông qua tiền lương, coi đây như một công cụ quản lý nhằm xây dựng khu vực công hiệu quả hơn.

Hệ thống lương mới dựa trên hệ thống lương cơ bản, bao gồm các bậc lương cơ bản được thỏa thuận tập trung và tiền thưởng được thỏa thận không tập trung, các mức thưởng ngày càng có vai trò quan trọng trong tổng thu nhập của công chức.

Tiền thưởng được thỏa thuận ở cấp địa phương có liên quan đến:

• Trình độ chuyên môn: các kỹ năng, phẩm chất chuyên môn và phẩm chất cá nhân của người lao động, chất lượng của kết quả làm việc, so sánh với các việc thực hiện các nhiệm vụ tương tự trong thị trường lao động hoặc với mục tiêu tuyển dụng hay giữ chân nhân viên được khen thưởng. Theo nguyên tắc chung, loại  thưởng này là thường xuyên.

• Chức năng: phần thưởng cho trách nhiệm, nhiệm vụ đặc biệt hoặc các chức năng thường là đột xuất, tuy nhiên các loại thưởng này cũng có thể trở thành thường xuyên.

• Các khoản chi một lần: đối với các nhiệm vụ đặc biệt.

• Hiệu quả: Đối với việc đạt được mục tiêu nhất định đã đề ra trước đó (về chất lượng hoặc số lượng). Đây là loại tiền thưởng có thể thỏa thuận cho từng cá nhân hoặc cho một nhóm nhân viên.

Theo hệ thống lương cũ, công chức được trả lương theo các bậc lương được tự động tăng lên theo thâm niên (thường là 2 năm). Thang bảng lương bao gồm 55 bậc, mỗi bậc được chia thành các mức.

Việc phân loại thành các bậc lương phụ thuộc vào các nhiệm vụ, trách nhiệm và năng lực cần thiết cho công việc.

Sự khác nhau về lương giữa các thành phố trong 5 khu vực của Đan Mạch cũng đều được xem xét trong mối quan hệ giữa tiền lương, giá cả và thuế địa phương.

Công chức cấp cao (SENIOR CIVIL SERVANTS-SCS)

Chức trách

Chức danh

Bộ phận của SCS?

Bổ nhiệm các vị trí chính trị

Mức 1

Bộ trưởng

Không

Mức 2

Thư ký thường trực

Không

Mức 3

Tổng Cục trưởng

Không

Mức 4

Vụ trưởng

Không

Mức 5

Trưởng phòng

Không

Việc tuyển dụng công chức cấp cao luôn được thực hiện mở rộng và công khai, các công chức không có bất kỳ sự ưu tiên nào hơn so với các ứng viên từ khu vực tư nhân (Xem Bảng 2). Công chức cấp cao do Nữ hoàng bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Ủy ban hành chính với thời hạn từ 3 đến 6 năm (có thể gia hạn tối đa là hơn 3 năm). Hợp đồng lao động bao gồm các điều kiện về tiền lương cho công chức và và khả năng khi hợp đồng hết hạn.

Việc tuyển dụng dựa trên cơ sở thâm niên, trình độ chuyên môn và thành tích đạt được trong quá trình công tác. Việc đánh giá hiệu quả công việc được người sử dụng lao động đánh giá hàng năm. Cùng với tiền lương, việc đào tạo bồi dưỡng công chức cấp cao cũng là một trong những lĩnh vực có nhiều thay đổi trong cuộc cải cách về chất lượng năm 2007 nhằm nâng cao năng lực quản lý.

Cải cách vấn đề tiền lương của công chức cấp cao nhằm làm cho việc quản lý tiền lương linh hoạt hơn. Theo đó chỉ quy định các mức lương cơ bản, còn các loại thưởng khác nhau có thể thương lượng, gắn trả lương và thưởng với kết quả công việc. Cơ quan quản lý công chức Đan mạch cũng phát triển dự án thí điểm nhằm tăng số lượng nữ giới làm công tác quản lý.

Công chức cấp cao có thể có thời gian làm việc linh hoạt hoặc làm việc bán thời gian tuy nhiên điều này không phổ biến. Ngoài ra, công chức cấp cao cũng có các quyền hạn như các công chức khác.

8. Cải cách gần đây và triển vọng

Ngoài cải cách hệ thống lương năm 1998-1999,  cuộc "Cải cách chất lượng" năm 2007 với tổng số 180 sáng kiến để nâng cao chất lượng quản lý nguồn nhân lực và đặc biệt là đối với các nhà quản lý công.

Nguyễn Thu Hà

Viện Khoa học tổ chức nhà nước

Tài liệu tham khảo:

1. http://denmark.dk/en/society/government-and-politics/

2. Public Employment in European Union member states 2010

3. The Parliamentary System of Denmark